無Vô 量Lượng 壽Thọ 經Kinh 卷quyển 下hạ
Kinh Vô Lượng Thọ ♦ Quyển hạ


Trụ Trong Chính Định


佛Phật 告cáo 阿A 難Nan
Phật bảo ngài Khánh Hỷ:

其kỳ 有hữu 眾chúng 生sanh生sanh 彼bỉ 國quốc 者giả皆giai 悉tất 住trụ 於ư正chánh 定định 之chi 聚tụ
"Phàm chúng sanh vãng sanh về cõi nước kia đều trụ trong chánh định.

所sở 以dĩ 者giả 何hà彼bỉ 佛Phật 國quốc 中trung無vô 諸chư 邪tà 聚tụ及cập 不bất 定định 之chi 聚tụ
Vì sao thế? Bởi trong quốc độ của Đức Phật kia không có tà định hay bất định tụ hội."


Ba Phẩm Vãng Sinh


十thập 方phương 恆Hằng 沙sa諸chư 佛Phật 如Như 來Lai皆giai 共cộng 讚tán 歎thán無Vô 量Lượng 壽Thọ 佛Phật威uy 神thần 功công 德đức不bất 可khả 思tư 議nghị諸chư 有hữu 眾chúng 生sanh聞văn 其kỳ 名danh 號hiệu信tín 心tâm 歡hoan 喜hỷ乃nãi 至chí 一nhất 念niệm至chí 心tâm 迴hồi 向hướng願nguyện 生sanh 彼bỉ 國quốc即tức 得đắc 往vãng 生sanh住trụ 不bất 退thoái 轉chuyển唯duy 除trừ 五ngũ 逆nghịch誹phỉ 謗báng 正Chánh 法Pháp
"Chư Phật Như Lai nhiều như cát sông Hằng trong mười phương đều đồng tán thán uy thần và công đức chẳng thể nghĩ bàn của Đức Phật Vô Lượng thọ. Nếu có những chúng sanh nào nghe được danh hiệu ấy và tín tâm hoan hỷ, dù chỉ đến một niệm chí tâm hồi hướng và nguyện sanh nước kia, thì lập tức được vãng sanh và trụ không thoái chuyển--duy trừ năm tội ngỗ nghịch hoặc tội phỉ báng Chánh Pháp."




佛Phật 告cáo 阿A 難Nan
Phật bảo ngài Khánh Hỷ:

十thập 方phương 世thế 界giới諸chư 天thiên 人nhân 民dân其kỳ 有hữu 至chí 心tâm願nguyện 生sanh 彼bỉ 國quốc凡phàm 有hữu 三tam 輩bối
"Chư thiên và loài người ở các thế giới trong mười phương, nếu họ chí tâm nguyện sanh về cõi nước kia thì sẽ ở một trong ba phẩm.

其kỳ 上thượng 輩bối 者giả捨xả 家gia 棄khí 欲dục而nhi 作tác 沙Sa 門Môn發phát 菩Bồ 提Đề 心tâm一nhất 向hướng 專chuyên 念niệm無Vô 量Lượng 壽Thọ 佛Phật修tu 諸chư 功công 德đức願nguyện 生sanh 彼bỉ 國quốc此thử 等đẳng 眾chúng 生sanh臨lâm 壽thọ 終chung 時thời無Vô 量Lượng 壽Thọ 佛Phật與dữ 諸chư 大đại 眾chúng現hiện 其kỳ 人nhân 前tiền即tức 隨tùy 彼bỉ 佛Phật往vãng 生sanh 其kỳ 國quốc便tiện 於ư 七thất 寶bảo 華hoa 中trung自tự 然nhiên 化hóa 生sanh住trụ 不bất 退thoái 轉chuyển智trí 慧tuệ 勇dũng 猛mãnh神thần 通thông 自tự 在tại
Ở thượng phẩm là những vị rời gia đình, xuất gia ly dục để trở thành Đạo Nhân. Họ phát khởi Đạo tâm và nhất tâm chuyên niệm Đức Phật Vô Lượng Thọ, tu các công đức và nguyện sanh nước kia. Khi những chúng sanh này mạng chung, Đức Phật Vô Lượng Thọ và các thánh chúng hiện ra ở trước họ. Người ấy liền theo sau Đức Phật kia, rồi vãng sanh về cõi nước đó. Họ tự nhiên hóa sanh ở trong hoa bảy báu, trụ không thoái chuyển, và được trí tuệ dũng mãnh với thần thông tự tại.

是thị 故cố 阿A 難Nan其kỳ 有hữu 眾chúng 生sanh欲dục 於ư 今kim 世thế見kiến 無Vô 量Lượng 壽Thọ 佛Phật應ưng 發phát 無vô 上thượng菩Bồ 提Đề 之chi 心tâm修tu 行hành 功công 德đức願nguyện 生sanh 彼bỉ 國quốc
Vì thế, Khánh Hỷ! Trong đời hiện tại, nếu có chúng sanh nào muốn thấy Đức Phật Vô Lượng Thọ, thì phải nên phát khởi Đạo tâm vô thượng, tu hành công đức, và nguyện sanh nước kia."




佛Phật 告cáo 阿A 難Nan
Phật bảo ngài Khánh Hỷ:

其kỳ 中trung 輩bối 者giả十thập 方phương 世thế 界giới諸chư 天thiên 人nhân 民dân其kỳ 有hữu 至chí 心tâm願nguyện 生sanh 彼bỉ 國quốc雖tuy 不bất 能năng 行hành 作tác 沙Sa 門Môn大đại 修tu 功công 德đức當đương 發phát 無vô 上thượng菩Bồ 提Đề 之chi 心tâm一nhất 向hướng 專chuyên 念niệm無Vô 量Lượng 壽Thọ 佛Phật多đa 少thiểu 修tu 善thiện奉phụng 持trì 齋trai 戒giới起khởi 立lập 塔tháp 像tượng飯phạn 食thực 沙Sa 門Môn懸huyền 繒tăng 然nhiên 燈đăng散tán 華hoa 燒thiêu 香hương以dĩ 此thử 迴hồi 向hướng願nguyện 生sanh 彼bỉ 國quốc其kỳ 人nhân 臨lâm 終chung無Vô 量Lượng 壽Thọ 佛Phật化hóa 現hiện 其kỳ 身thân光quang 明minh 相tướng 好hảo具cụ 如như 真chân 佛Phật與dữ 諸chư 大đại 眾chúng現hiện 其kỳ 人nhân 前tiền即tức 隨tùy 化hóa 佛Phật往vãng 生sanh 其kỳ 國quốc住trụ 不bất 退thoái 轉chuyển功công 德đức 智trí 慧tuệ次thứ 如như 上thượng 輩bối 者giả 也dã
"Ở trung phẩm là hàng trời người ở các thế giới trong mười phương, những ai chí tâm nguyện sanh về cõi nước kia. Tuy không thể xuất gia làm Đạo Nhân để tu đại công đức, nhưng do phát khởi Đạo tâm vô thượng và nhất tâm chuyên niệm Đức Phật Vô Lượng Thọ. Họ tu thiện hoặc ít hay nhiều, phụng trì trai giới, xây tháp tạc tượng, cúng dường Đạo Nhân thức ăn, thắp đèn, treo lọng, thắp hương rải hoa, rồi dùng công đức đó hồi hướng và nguyện sanh nước kia. Khi người ấy lâm chung, Đức Phật Vô Lượng Thọ hóa hiện một hóa thân với tướng hảo và quang minh đầy đủ như Đức Phật thật, rồi cùng với các thánh chúng hiện ra ở trước họ. Người ấy liền theo sau hóa Phật, vãng sanh về nước đó và trụ không thoái chuyển. Công đức và trí tuệ kế sau những vị ở thượng phẩm."




佛Phật 告cáo 阿A 難Nan
Phật bảo ngài Khánh Hỷ:

其kỳ 下hạ 輩bối 者giả十thập 方phương 世thế 界giới諸chư 天thiên 人nhân 民dân其kỳ 有hữu 至chí 心tâm欲dục 生sanh 彼bỉ 國quốc假giả 使sử 不bất 能năng作tác 諸chư 功công 德đức當đương 發phát 無vô 上thượng菩Bồ 提Đề 之chi 心tâm一nhất 向hướng 專chuyên 意ý乃nãi 至chí 十thập 念niệm念niệm 無Vô 量Lượng 壽Thọ 佛Phật願nguyện 生sanh 其kỳ 國quốc若nhược 聞văn 深thâm 法Pháp歡hoan 喜hỷ 信tín 樂nhạo不bất 生sanh 疑nghi 惑hoặc乃nãi 至chí 一nhất 念niệm念niệm 於ư 彼bỉ 佛Phật以dĩ 至chí 誠thành 心tâm願nguyện 生sanh 其kỳ 國quốc此thử 人nhân 臨lâm 終chung夢mộng 見kiến 彼bỉ 佛Phật亦diệc 得đắc 往vãng 生sanh功công 德đức 智trí 慧tuệ次thứ 如như 中trung 輩bối 者giả 也dã
"Ở hạ phẩm là hàng trời người ở các thế giới trong mười phương, những ai chí tâm nguyện sanh về cõi nước kia. Giả sử không thể làm những công đức, thì phải nên phát khởi Đạo tâm vô thượng và nhất tâm nhiếp ý cho đến mười niệm, niệm Đức Phật Vô Lượng Thọ, và nguyện sanh về nước đó. Nếu như họ nghe được Pháp thâm sâu, rồi hoan hỷ tín thọ, chẳng sanh lòng hoài nghi, cho đến chỉ được một niệm với tâm chí thành mà niệm Đức Phật kia và nguyện sanh về cõi nước đó. Khi lâm chung, người ấy sẽ mộng thấy Đức Phật kia và cũng được vãng sanh. Công đức và trí tuệ kế sau những vị ở trung phẩm."


Chư Phật Tán Thán và Bồ-tát Cung Kính


佛Phật 告cáo 阿A 難Nan
Phật bảo ngài Khánh Hỷ:

無Vô 量Lượng 壽Thọ 佛Phật威uy 神thần 無vô 極cực十thập 方phương 世thế 界giới無vô 量lượng 無vô 邊biên不bất 可khả 思tư 議nghị諸chư 佛Phật 如Như 來Lai莫mạc 不bất 稱xưng 歎thán於ư 彼bỉ 東đông 方phương恆Hằng 河Hà 沙sa 佛Phật 國quốc無vô 量lượng 無vô 數số諸chư 菩Bồ 薩Tát 眾chúng皆giai 悉tất 往vãng 詣nghệ無Vô 量Lượng 壽Thọ 佛Phật 所sở恭cung 敬kính 供cúng 養dường及cập 諸chư 菩Bồ 薩Tát聲Thanh 聞Văn 大đại 眾chúng聽thính 受thọ 經Kinh 法Pháp宣tuyên 布bố 道Đạo 化hóa南nam 西tây 北bắc 方phương四tứ 維duy 上thượng 下hạ亦diệc 復phục 如như 是thị
"Uy thần của Đức Phật Vô Lượng Thọ là chí tôn vô cực. Vô lượng vô biên các thế giới chẳng thể nghĩ bàn trong mười phương, chẳng có chư Phật Như Lai nào là không tán thán Ngài. Ở phương đông có vô lượng vô số chư Bồ-tát từ Hằng Hà sa cõi nước của chư Phật, đều đồng đến cõi nước của Đức Phật Vô Lượng Thọ, cung kính cúng dường Ngài cùng chư Bồ-tát và Thanh Văn thánh chúng. Các ngài đến đó nghe và thọ trì Kinh Pháp, rồi sau đó đi tuyên dương Đạo Pháp và giáo hóa chúng sanh. Nam tây bắc phương, bốn hướng phụ, cùng phương trên và phương dưới cũng lại như vậy."

爾nhĩ 時thời 世Thế 尊Tôn而nhi 說thuyết 頌tụng 曰viết
Lúc bấy giờ Thế Tôn nói kệ rằng:

東đông 方phương 諸chư 佛Phật 國quốc
其kỳ 數số 如như 恆Hằng 沙sa
彼bỉ 土độ 菩Bồ 薩Tát 眾chúng
往vãng 覲cận 無Vô 量Lượng 覺Giác

"Phương đông các cõi Phật
Số như cát sông Hằng
Bồ-tát cõi nước đó
Đến lễ Vô Lượng Thọ

南nam 西tây 北bắc 四tứ 維duy
上thượng 下hạ 亦diệc 復phục 然nhiên
彼bỉ 土độ 菩Bồ 薩Tát 眾chúng
往vãng 覲cận 無Vô 量Lượng 覺Giác

Nam bắc tây bốn phụ
Thượng hạ cũng như vậy
Bồ-tát cõi nước đó
Đến lễ Vô Lượng Thọ

一nhất 切thiết 諸chư 菩Bồ 薩Tát
各các 齎tê 天thiên 妙diệu 華hoa
寶bảo 香hương 無vô 價giá 衣y
供cúng 養dường 無Vô 量Lượng 覺Giác

Tất cả chư Bồ-tát
Mỗi vị cầm diệu hoa
Bảo hương vô giá y
Cúng dường Vô Lượng Thọ

咸hàm 然nhiên 奏tấu 天thiên 樂nhạc
暢sướng 發phát 和hòa 雅nhã 音âm
歌ca 歎thán 最tối 勝thắng 尊Tôn
供cúng 養dường 無Vô 量Lượng 覺Giác

Nhạc trời hòa tấu khắp
Ngân vang hòa nhã âm
Tán thán tối thắng Tôn
Cúng dường Vô Lượng Thọ

究cứu 達đạt 神thần 通thông 慧tuệ
遊du 入nhập 深thâm 法Pháp 門môn
具cụ 足túc 功công 德đức 藏tạng
妙diệu 智trí 無vô 等đẳng 倫luân

Thần thông trí thông đạt
Vào sâu diệu Pháp môn
Đầy đủ công đức tạng
Diệu trí vô đẳng luân

慧tuệ 日nhật 照chiếu 世thế 間gian
消tiêu 除trừ 生sanh 死tử 雲vân
恭cung 敬kính 繞nhiễu 三tam 匝táp
稽khể 首thủ 無Vô 上Thượng 尊Tôn

Tuệ nhật chiếu thế gian
Tiêu trừ mây sanh tử
Cung kính nhiễu ba vòng
Cúi đầu Vô Thượng Tôn

見kiến 彼bỉ 嚴nghiêm 淨tịnh 土độ
微vi 妙diệu 難nan 思tư 議nghị
因nhân 發phát 無vô 量lượng 心tâm
願nguyện 我ngã 國quốc 亦diệc 然nhiên

Khi thấy nghiêm tịnh độ
Vi diệu khó nghĩ bàn
Rồi phát vô thượng tâm:
'Nước con nguyện cũng thế'

應ứng 時thời 無Vô 量Lượng 尊Tôn
動động 容dung 發phát 欣hân 笑tiếu
口khẩu 出xuất 無vô 數số 光quang
遍biến 照chiếu 十thập 方phương 國quốc

Lúc ấy Vô Lượng Tôn
Hân hoan miệng mỉm cười
Phóng ra vô số quang
Biến chiếu mười phương cõi

迴hồi 光quang 圍vi 繞nhiễu 身thân
三tam 匝táp 從tùng 頂đảnh 入nhập
一nhất 切thiết 天thiên 人nhân 眾chúng
踊dũng 躍dược 皆giai 歡hoan 喜hỷ

Hồi quang nhiễu quanh thân
Ba vòng rồi vào đảnh
Hết thảy hàng trời người
Hớn hở đều vui mừng

大Đại 士sĩ 觀Quán 世Thế 音Âm
整chỉnh 服phục 稽khể 首thủ 問vấn
白bạch 佛Phật 何hà 緣duyên 笑tiếu
唯dụy 然nhiên 願nguyện 說thuyết 意ý

Đại Sĩ Quán Thế Âm
Chỉnh y cúi đầu hỏi rằng:
'Thưa Phật vì sao cười?
Kính mong nói nghĩa ý'

梵Phạm 聲thanh 猶do 雷lôi 震chấn
八bát 音âm 暢sướng 妙diệu 響hưởng
當đương 授thọ 菩Bồ 薩Tát 記ký
今kim 說thuyết 仁nhân 諦đế 聽thính

Phạm âm như sấm rền
Tám âm diệu sướng vang:
'Vì thọ Bồ-tát ký
Lắng nghe nay Ta nói

十thập 方phương 來lai 正Chánh 士Sĩ
吾ngô 悉tất 知tri 彼bỉ 願nguyện
志chí 求cầu 嚴nghiêm 淨tịnh 土độ
受thọ 決quyết 當đương 作tác 佛Phật

Chánh Sĩ mười phương đến
Ta đều biết nguyện họ
Chí cầu nghiêm tịnh độ
Thọ ký sẽ thành Phật

覺giác 了liễu 一nhất 切thiết 法pháp
猶do 如như 夢mộng 幻huyễn 響hưởng
滿mãn 足túc 諸chư 妙diệu 願nguyện
必tất 成thành 如như 是thị 剎sát

Hiểu rõ tất cả pháp
Như mộng huyễn âm vang
Các nguyện sẽ viên mãn
Đều thành như nước Ta

知tri 法pháp 如như 電điện 影ảnh
究cứu 竟cánh 菩Bồ 薩Tát 道Đạo
具cụ 諸chư 功công 德đức 本bổn
受thọ 決quyết 當đương 作tác 佛Phật

Biết pháp như ảnh điện
Cứu cánh Đạo Bồ-tát
Đầy đủ các công đức
Thọ ký sẽ thành Phật

通thông 達đạt 諸chư 法Pháp 門môn
一nhất 切thiết 空không 無vô 我ngã
專chuyên 求cầu 淨tịnh 佛Phật 土độ
必tất 成thành 如như 是thị 剎sát

Thông đạt các Pháp môn
Hết thảy không, vô ngã
Chuyên cầu tịnh Phật độ
Đều thành như nước Ta'

諸chư 佛Phật 告cáo 菩Bồ 薩Tát
令lệnh 覲cận 安An 養Dưỡng 佛Phật
聞văn 法Pháp 樂nhạo 受thọ 行hành
疾tật 得đắc 清thanh 淨tịnh 處xứ

Chư Phật bảo Bồ-tát
'Thân cận An Dưỡng Phật
Nghe Pháp vui hành trì
Mau được nơi thanh tịnh

至chí 彼bỉ 嚴nghiêm 淨tịnh 土độ
便tiện 速tốc 得đắc 神thần 通thông
必tất 於ư 無Vô 量Lượng 尊Tôn
受thọ 記ký 成thành 等đẳng 覺giác

Lúc đến nghiêm tịnh độ
Lập tức đắc thần thông
Sẽ được Vô Lượng Tôn
Thọ ký thành đẳng giác

其kỳ 佛Phật 本bổn 願nguyện 力lực
聞văn 名danh 欲dục 往vãng 生sanh
皆giai 悉tất 到đáo 彼bỉ 國quốc
自tự 致trí 不bất 退thoái 轉chuyển

Do Phật bổn nguyện lực
Nghe tên muốn vãng sanh
Đều sẽ sanh nước kia
Tự tại không thoái chuyển'

菩Bồ 薩Tát 興hưng 志chí 願nguyện
願nguyện 己kỷ 國quốc 無vô 異dị
普phổ 念niệm 度độ 一nhất 切thiết
名danh 顯hiển 滿mãn 十thập 方phương

Bồ-tát nào chí nguyện
Nguyện nước mình không khác
Rộng nhớ độ chúng sanh
Danh vang khắp mười phương

奉phụng 事sự 億ức 如Như 來Lai
飛phi 化hóa 遍biến 諸chư 剎sát
恭cung 敬kính 歡hoan 喜hỷ 去khứ
還hoàn 到đáo 安An 養Dưỡng 國Quốc

Phụng sự ức Như Lai
Phi hành khắp mười phương
Cung kính vui mừng đi
Rồi về An Dưỡng Quốc

若nhược 人nhân 無vô 善thiện 本bổn
不bất 得đắc 聞văn 此thử 經Kinh
清thanh 淨tịnh 有hữu 戒giới 者giả
乃nãi 獲hoạch 聞văn 正Chánh 法Pháp

Nếu người không thiện căn
Chẳng thể nghe Kinh này
Chỉ người giới thanh tịnh
Mới nghe được Chánh Pháp

曾tằng 更canh 見kiến 世Thế 尊Tôn
則tắc 能năng 信tín 此thử 事sự
謙khiêm 敬kính 聞văn 奉phụng 行hành
踊dũng 躍dược 大đại 歡hoan 喜hỷ

Chỉ ai từng thấy Phật
Mới tin nơi Pháp này
Khiêm kính nghe phụng hành
Hớn hở lòng vui mừng

憍kiêu 慢mạn 弊tệ 懈giải 怠đãi
難nan 以dĩ 信tín 此thử 法Pháp
宿túc 世thế 見kiến 諸chư 佛Phật
樂nhạo 聽thính 如như 是thị 教giáo

Kiêu mạn lười biếng ngu
Khó mà tin Pháp ấy
Đời trước ai thấy Phật
Mới vui nghe giáo này

聲Thanh 聞Văn 或hoặc 菩Bồ 薩Tát
莫mạc 能năng 究cứu 聖Thánh 心tâm
譬thí 如như 從tùng 生sanh 盲manh
欲dục 行hành 開khai 導đạo 人nhân

Thanh Văn và Bồ-tát
Chẳng thể rõ tâm Phật
Ví như từ kẻ mù
Lại muốn chỉ dẫn người

如Như 來Lai 智trí 慧tuệ 海hải
深thâm 廣quảng 無vô 崖nhai 底để
二Nhị 乘Thừa 非phi 所sở 測trắc
唯duy 佛Phật 獨độc 明minh 了liễu

Như Lai biển trí tuệ
Rộng sâu vô bờ đáy
Nhị Thừa chẳng thể lường
Duy Phật mới rõ thông

假giả 使sử 一nhất 切thiết 人nhân
具cụ 足túc 皆giai 得đắc 道Đạo
淨tịnh 慧tuệ 如như 本bổn 空không
億ức 劫kiếp 思tư 佛Phật 智trí

Giả sử tất cả người
Hết thảy đều đắc Đạo
Tịnh tuệ như bổn không
Ức kiếp nghĩ Phật trí

窮cùng 力lực 極cực 講giảng 說thuyết
盡tận 壽thọ 猶do 不bất 知tri
佛Phật 慧tuệ 無vô 邊biên 際tế
如như 是thị 致trí 清thanh 淨tịnh

Tận lực tuyên thuyết giảng
Trọn đời cũng chẳng thấu
Phật trí vô biên tế
Trí tuệ thanh tịnh sâu

壽thọ 命mạng 甚thậm 難nan 得đắc
佛Phật 世thế 亦diệc 難nan 值trị
人nhân 有hữu 信tín 慧tuệ 難nan
若nhược 聞văn 精tinh 進tấn 求cầu
聞văn 法Pháp 能năng 不bất 忘vong
見kiến 敬kính 得đắc 大đại 慶khánh

Sống lâu rất khó được
Gặp Phật càng khó hơn
Khó người có tín tuệ
Nếu nghe tinh tấn tu
Thấy nghe chẳng lãng quên
Kính Pháp được an vui

則tắc 我ngã 善thiện 親thân 友hữu
是thị 故cố 當đương 發phát 意ý
設thiết 滿mãn 世thế 界giới 火hỏa
必tất 過quá 要yếu 聞văn 法Pháp
會hội 當đương 成thành 佛Phật 道Đạo
廣quảng 濟tế 生sanh 死tử 流lưu

Thiện thân hữu của Ta
Vì thế nên phát tâm
Dù lửa thiêu thế giới
Cũng quyết đến nghe Pháp
Tất sẽ thành Phật Đạo
Rộng độ các chúng sanh"


Chư Bồ-tát Tối Thắng


佛Phật 告cáo 阿A 難Nan
Phật bảo ngài Khánh Hỷ:

彼bỉ 國quốc 菩Bồ 薩Tát皆giai 當đương 究cứu 竟cánh一Nhất 生Sanh 補Bổ 處Xứ除trừ 其kỳ 本bổn 願nguyện為vì 眾chúng 生sanh 故cố以dĩ 弘hoằng 誓thệ 功công 德đức而nhi 自tự 莊trang 嚴nghiêm普phổ 欲dục 度độ 脫thoát一nhất 切thiết 眾chúng 生sanh
"Chư Bồ-tát ở quốc độ kia đều cứu cánh sẽ thành bậc Nhất Sanh Bổ Xứ. Duy trừ các vị do bổn nguyện vì chúng sanh; các ngài dùng thệ nguyện hoằng thâm với công đức để tự trang nghiêm và muốn rộng độ hết thảy chúng sanh.

阿A 難Nan彼bỉ 佛Phật 國quốc 中trung諸chư 聲Thanh 聞Văn 眾chúng身thân 光quang 一nhất 尋tầm菩Bồ 薩Tát 光quang 明minh照chiếu 百bách 由do 旬tuần有hữu 二nhị 菩Bồ 薩Tát最tối 尊tôn 第đệ 一nhất威uy 神thần 光quang 明minh普phổ 照chiếu 三Tam 千Thiên 大Đại 千Thiên 世Thế 界Giới
Này Khánh Hỷ! Hào quang nơi thân của hàng Thanh Văn trong cõi nước kia chiếu soi một tầm. Quang minh của Bồ-tát chiếu đến 100 yojana [dô cha na]. Tịnh độ ấy có hai vị Bồ-tát tối tôn đệ nhất; uy thần quang minh chiếu khắp Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới."

阿A 難Nan 白bạch 佛Phật
Ngài Khánh Hỷ bạch Phật rằng:

彼bỉ 二nhị 菩Bồ 薩Tát其kỳ 號hiệu 云vân 何hà
"Bạch Thế Tôn! Hai vị Bồ-tát kia danh hiệu là gì?"

佛Phật 言ngôn
Đức Phật bảo:

一nhất 名danh 觀Quán 世Thế 音Âm二nhị 名danh 大Đại 勢Thế 至Chí是thị 二nhị 菩Bồ 薩Tát於ư 此thử 國quốc 土độ修tu 菩Bồ 薩Tát 行hạnh命mạng 終chung 轉chuyển 化hóa生sanh 彼bỉ 佛Phật 國quốc
"Vị thứ nhất tên là Quán Thế Âm. Vị thứ nhì tên là Đại Thế Chí. Hai vị Bồ-tát đó đã tu hạnh Bồ-tát ở Thế giới Kham Nhẫn này đây. Sau khi mạng chung, các ngài đã vãng sanh đến quốc độ của Đức Phật kia.

阿A 難Nan其kỳ 有hữu 眾chúng 生sanh生sanh 彼bỉ 國quốc 者giả皆giai 悉tất 具cụ 足túc三tam 十thập 二nhị 相tướng智trí 慧tuệ 成thành 滿mãn深thâm 入nhập 諸chư 法Pháp究cứu 暢sướng 要yếu 妙diệu神thần 通thông 無vô 礙ngại諸chư 根căn 明minh 利lợi其kỳ 鈍độn 根căn 者giả成thành 就tựu 二nhị 忍Nhẫn其kỳ 利lợi 根căn 者giả得đắc 阿a 僧tăng 祇kỳ無Vô 生Sanh 法Pháp 忍Nhẫn
Này Khánh Hỷ! Chúng sanh vãng sanh đến cõi nước kia đều trọn đủ 32 tướng, thành tựu đầy đủ trí tuệ, vào sâu các Pháp và rõ thông diệu lý, thần thông vô ngại, các căn sắc bén. Những ai với độn căn thì thành tựu hai Nhẫn đầu, còn bậc lợi căn thì được vô số Vô Sanh Pháp Nhẫn.

又hựu 彼bỉ 菩Bồ 薩Tát乃nãi 至chí 成thành 佛Phật不bất 更cánh 惡ác 趣thú神thần 通thông 自tự 在tại常thường 識thức 宿túc 命mạng除trừ 生sanh 他tha 方phương五ngũ 濁trược 惡ác 世thế示thị 現hiện 同đồng 彼bỉ如như 我ngã 國quốc 也dã
Lại nữa, chư Bồ-tát kia cho đến khi thành Phật sẽ không bao giờ còn đọa đường ác. Thần thông của các ngài tự tại và luôn nhớ việc đời trước--duy trừ sanh trong đời ác năm trược ở phương khác nên thị hiện đồng như chúng sanh nơi đó, ví dụ như là ở cõi nước Ta đây."

佛Phật 語ngứ 阿A 難Nan
Phật bảo ngài Khánh Hỷ:

彼bỉ 國quốc 菩Bồ 薩Tát承thừa 佛Phật 威uy 神thần一nhất 食thực 之chi 頃khoảnh往vãng 詣nghệ 十thập 方phương無vô 量lượng 世thế 界giới恭cung 敬kính 供cúng 養dường諸chư 佛Phật 世Thế 尊Tôn隨tùy 心tâm 所sở 念niệm華hoa 香hương 伎kỹ 樂nhạc繒tăng 蓋cái 幢tràng 幡phan無vô 數số 無vô 量lượng供cúng 養dường 之chi 具cụ自tự 然nhiên 化hóa 生sanh應ứng 念niệm 即tức 至chí珍trân 妙diệu 殊thù 特đặc非phi 世thế 所sở 有hữu轉chuyển 以dĩ 奉phụng 散tán諸chư 佛Phật 菩Bồ 薩Tát聲Thanh 聞Văn 大đại 眾chúng在tại 虛hư 空không 中trung化hóa 成thành 華hoa 蓋cái光quang 色sắc 晃hoảng 爍thước香hương 氣khí 普phổ 熏huân其kỳ 華hoa 周chu 圓viên四tứ 百bách 里lý 者giả如như 是thị 轉chuyển 倍bội乃nãi 覆phú 三Tam 千Thiên 大Đại 千Thiên 世Thế 界Giới隨tùy 其kỳ 前tiền 後hậu以dĩ 次thứ 化hóa 沒một其kỳ 諸chư 菩Bồ 薩Tát僉thiêm 然nhiên 欣hân 悅duyệt於ư 虛hư 空không 中trung共cộng 奏tấu 天thiên 樂nhạc以dĩ 微vi 妙diệu 音âm歌ca 歎thán 佛Phật 德đức聽thính 受thọ 經Kinh 法Pháp歡hoan 喜hỷ 無vô 量lượng供cúng 養dường 佛Phật 已dĩ未vị 食thực 之chi 前tiền忽hốt 然nhiên 輕khinh 舉cử還hoàn 其kỳ 本bổn 國quốc
"Chư Bồ-tát ở quốc độ kia nương uy thần của Phật, trong thời gian chừng bằng một bữa ăn có thể đến vô lượng thế giới trong mười phương để cung kính chư Phật Thế Tôn. Tùy tâm sở niệm mà cúng dường hương hoa âm nhạc, lọng che tràng phan. Vô lượng vô số phẩm vật cúng dường đều ứng theo ý niệm liền tự nhiên hóa sanh. Các kỳ trân diệu bảo thù đặc ấy không có ở thế gian. Những vật đó sau khi cúng dường cho chư Phật, Bồ-tát và Thanh Văn thánh chúng, rồi ở trong hư không hóa thành lọng hoa với sắc màu sáng rực, hương thơm xông khắp. Chu vi lọng hoa ấy mới đầu là 400 dặm và cứ như vậy nhân gấp đôi lên cho đến khi che phủ Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới. Rồi mỗi lọng hoa tuần tự ẩn mất. Lúc ấy, tâm của các Bồ-tát đó đều hân hoan và ở trong hư không đồng tấu nhạc trời. Họ dùng âm thanh vi diệu để ca vịnh và tán thán công đức của chư Phật. Rồi các ngài ở đó lắng nghe và thọ trì Kinh Pháp; tâm hoan hỷ vô lượng. Sau khi đã cúng dường Phật trước giờ thọ trai xong, họ nhẹ nhàng vụt trở về cõi nước của mình."


Tuyên Thuyết Diệu Pháp và Chư Thiên Cúng Dường


佛Phật 語ngứ 阿A 難Nan
Phật bảo ngài Khánh Hỷ:

無Vô 量Lượng 壽Thọ 佛Phật為vì 諸chư 聲Thanh 聞Văn菩Bồ 薩Tát 大đại 眾chúng頒ban 宣tuyên 法Pháp 時thời都đô 悉tất 集tập 會hội七thất 寶bảo 講giảng 堂đường廣quảng 宣tuyên 道Đạo 教giáo演diễn 暢sướng 妙diệu 法Pháp莫mạc 不bất 歡hoan 喜hỷ心tâm 解giải 得đắc 道Đạo
"Khi Đức Phật Vô Lượng Thọ ban tuyên Pháp nhũ cho chư Bồ-tát và hàng Thanh Văn, tất cả đại chúng đều tề tựu về giảng đường bảy báu. Ngài rộng tuyên dương giáo Pháp và diễn nói diệu Pháp. Khi đó, không ai là chẳng hoan hỷ, vì tâm họ đã thấu hiểu Đạo.

即tức 時thời 四tứ 方phương自tự 然nhiên 風phong 起khởi普phổ 吹xuy 七thất 寶bảo 樹thụ出xuất 五ngũ 音âm 聲thanh雨vũ 無vô 量lượng 妙diệu 華hoa隨tùy 風phong 周chu 遍biến自tự 然nhiên 供cúng 養dường如như 是thị 不bất 絕tuyệt一nhất 切thiết 諸chư 天thiên皆giai 齎tê 天thiên 上thượng百bách 千thiên 華hoa 香hương萬vạn 種chủng 伎kỹ 樂nhạc供cúng 養dường 其kỳ 佛Phật及cập 諸chư 菩Bồ 薩Tát聲Thanh 聞Văn 大đại 眾chúng普phổ 散tán 華hoa 香hương奏tấu 諸chư 音âm 樂nhạc前tiền 後hậu 來lai 往vãng更cánh 相tương 開khai 避tị當đương 斯tư 之chi 時thời熙hi 然nhiên 快khoái 樂lạc不bất 可khả 勝thăng 言ngôn
Ngay lúc ấy có gió tự nhiên khởi lên ở bốn hướng và thổi xuyên qua hàng cây bảy báu, phát ra năm loại âm thanh và theo làn gió mưa xuống vô lượng diệu hoa rải khắp nơi. Các thứ cúng dường tự nhiên như vậy liên tục chẳng ngớt. Tất cả chư thiên đều mang theo trăm ngàn hương hoa cõi trời và muôn loại âm nhạc để cúng dường Đức Phật kia cùng chư Bồ-tát và Thanh Văn thánh chúng. Họ rải hương hoa khắp nơi, khảy tấu các loại âm nhạc, và thứ tự trước sau đến đi. Những sự vui vẻ an lạc lúc ấy thì không thể dùng ngôn từ diễn tả được."


Uy Đức của Chư Bồ-tát


佛Phật 告cáo 阿A 難Nan
Phật bảo ngài Khánh Hỷ:

生sanh 彼bỉ 佛Phật 國quốc諸chư 菩Bồ 薩Tát 等đẳng所sở 可khả 講giảng 說thuyết常thường 宣tuyên 正Chánh 法Pháp隨tùy 順thuận 智trí 慧tuệ無vô 違vi 無vô 失thất於ư 其kỳ 國quốc 土độ所sở 有hữu 萬vạn 物vật無vô 我ngã 所sở 心tâm無vô 染nhiễm 著trước 心tâm去khứ 來lai 進tiến 止chỉ情tình 無vô 所sở 係hệ隨tùy 意ý 自tự 在tại無vô 所sở 適thích 莫mạc無vô 彼bỉ 無vô 我ngã無vô 競cạnh 無vô 訟tụng
"Chư Bồ-tát ở cõi Phật kia đều tùy thuận trí tuệ của mình mà thường thuyết giảng, tuyên dương Chánh Pháp và đều chẳng trái nghịch hay sai lầm. Đối với vạn vật ở cõi nước đó đều không có tâm chiếm hữu và tâm nhiễm trước. Đi đứng nằm ngồi đều không ràng buộc bởi tình cảm, tùy ý tự tại, chẳng thích hay ghét, không người không ta, chẳng tranh hơn thua.

於ư 諸chư 眾chúng 生sanh得đắc 大đại 慈từ 悲bi饒nhiêu 益ích 之chi 心tâm柔nhu 軟nhuyễn 調điều 伏phục無vô 忿phẫn 恨hận 心tâm離ly 蓋cái 清thanh 淨tịnh無vô 厭yếm 怠đãi 心tâm等đẳng 心tâm 勝thắng 心tâm深thâm 心tâm 定định 心tâm愛ái 法Pháp 樂nhạo 法Pháp喜hỷ 法Pháp 之chi 心tâm
Các ngài có tâm đại từ bi, tâm lợi ích chúng sanh, tâm nhu hòa dịu dàng, và tâm không sân hận. Tâm các ngài thanh tịnh lìa si mê, không có tâm chán ghét hay lười biếng. Lại có tâm bình đẳng, tâm thù thắng, tâm thâm sâu, tâm thiền định, tâm yêu mến Pháp, tâm thích Pháp lạc, và tâm hoan hỷ Pháp.

滅diệt 諸chư 煩phiền 惱não離ly 惡ác 趣thú 心tâm究cứu 竟cánh 一nhất 切thiết菩Bồ 薩Tát 所sở 行hành具cụ 足túc 成thành 就tựu無vô 量lượng 功công 德đức得đắc 深thâm 禪thiền 定định諸chư 通thông 明minh 慧tuệ遊du 志chí 七Thất 覺Giác修tu 心tâm 佛Phật 法Pháp
Các ngài diệt trừ mọi phiền não, tâm lìa xa đường ác, và cứu cánh đạt tới tất cả nơi tu hành của Bồ-tát. Thành tựu đầy đủ vô lượng công đức, trụ sâu trong thiền định, và đắc thần thông trí tuệ. Khéo tu tập Bảy Giác Phần và tâm luôn hành theo Phật Pháp.

肉nhục 眼nhãn 清thanh 徹triệt靡mĩ 不bất 分phân 了liễu天thiên 眼nhãn 通thông 達đạt無vô 量lượng 無vô 限hạn法Pháp 眼nhãn 觀quán 察sát究cứu 竟cánh 諸chư 道đạo慧tuệ 眼nhãn 見kiến 真chân能năng 度độ 彼bỉ 岸ngạn佛Phật 眼nhãn 具cụ 足túc覺giác 了liễu 法Pháp 性tánh
- Nhục nhãn thanh tịnh, phân biệt mọi sự.
- Thiên nhãn thông đạt, chẳng có giới hạn.
- Pháp nhãn quán sát, cứu cánh nghiệp đạo.
- Tuệ nhãn kiến chân, vượt qua bờ kia.
- Phật nhãn viên tròn, giác liễu Pháp tánh.

以dĩ 無vô 礙ngại 智trí為vì 人nhân 演diễn 說thuyết等đẳng 觀quán 三tam 界giới空không無vô 所sở 有hữu志chí 求cầu 佛Phật 法Pháp具cụ 諸chư 辯biện 才tài除trừ 滅diệt 眾chúng 生sanh煩phiền 惱não 之chi 患hoạn從tùng 如Như 來Lai 生sanh解giải 法Pháp 如như 如như善thiện 知tri 習tập 滅diệt音âm 聲thanh 方phương 便tiện不bất 欣hân 世thế 語ngữ樂nhạo 在tại 正chánh 論luận修tu 諸chư 善thiện 本bổn志chí 崇sùng 佛Phật 道Đạo知tri 一nhất 切thiết 法pháp皆giai 悉tất 寂tịch 滅diệt生sanh 身thân 煩phiền 惱não二nhị 餘dư 俱câu 盡tận聞văn 甚thậm 深thâm 法Pháp心tâm 不bất 疑nghi 懼cụ常thường 能năng 修tu 行hành其kỳ 大đại 悲bi 者giả深thâm 遠viễn 微vi 妙diệu靡mĩ 不bất 覆phúc 載tải究cứu 竟cánh 一Nhất 乘Thừa至chí 于vu 彼bỉ 岸ngạn
Với trí tuệ vô ngại, chư Bồ-tát vì người khác diễn nói Pháp. Quán sát hết thảy trong ba cõi đều không và không chỗ có. Thế nên chí cầu Phật Pháp và được đầy đủ các biện tài. Họ diệt trừ phiền não và hoạn nạn cho chúng sanh. Các ngài sanh ra từ nơi chánh giác của Như Lai và liễu giải Pháp như như. Họ khéo biết chỗ tịch diệt và âm thanh phương tiện; không yêu thích lời thế tục mà chỉ vui mến đàm luận Chánh Pháp; tu các căn lành và hết mực tôn kính Phật Đạo; biết tất cả pháp thảy đều tịch diệt; diệt trừ tận gốc rễ của sanh tử phiền não. Khi nghe Pháp thâm sâu, tâm họ chẳng hoài nghi hay sợ hãi, và luôn có thể tu hành đúng như Pháp. Lòng đại bi của các ngài vi diệu sâu xa và có thể chở chúng sanh đến bờ cứu cánh của Nhất Thừa.




決quyết 斷đoạn 疑nghi 網võng慧tuệ 由do 心tâm 出xuất於ư 佛Phật 教giáo 法Pháp該cai 羅la 無vô 外ngoại智trí 慧tuệ 如như 大đại 海hải三tam 昧muội 如như 山sơn 王vương慧tuệ 光quang 明minh 淨tịnh超siêu 踰du 日nhật 月nguyệt清thanh 白bạch 之chi 法Pháp具cụ 足túc 圓viên 滿mãn
Chư Bồ-tát quyết đoạn trừ lưới nghi nên tuệ tâm liền đó xuất hiện. Ở trong giáo Pháp của chư Phật được viên dung vô ngại. Trí tuệ như biển lớn, chánh định như vua núi. Ánh sáng của trí tuệ thanh tịnh và sáng hơn mặt trời mặt trăng. Họ thành tựu đầy đủ viên mãn các Pháp thanh tịnh.

猶do 如như 雪Tuyết 山Sơn照chiếu 諸chư 功công 德đức等đẳng 一nhất 淨tịnh 故cố猶do 如như 大đại 地địa淨tịnh 穢uế 好hảo 惡ác無vô 異dị 心tâm 故cố猶do 如như 淨tịnh 水thủy洗tẩy 除trừ 塵trần 勞lao諸chư 垢cấu 染nhiễm 故cố猶do 如như 火hỏa 王vương燒thiêu 滅diệt 一nhất 切thiết煩phiền 惱não 薪tân 故cố猶do 如như 大đại 風phong行hành 諸chư 世thế 界giới無vô 障chướng 閡ngại 故cố猶do 如như 虛hư 空không於ư 一nhất 切thiết 有hữu無vô 所sở 著trước 故cố猶do 如như 蓮liên 華hoa於ư 諸chư 世thế 間gian無vô 染nhiễm 污ô 故cố猶do 如như 大Đại 乘Thừa運vận 載tải 群quần 萌manh出xuất 生sanh 死tử 故cố猶do 如như 重trùng 雲vân震chấn 大đại 法Pháp 雷lôi覺giác 未vị 覺giác 故cố猶do 如như 大đại 雨vũ雨vũ 甘cam 露lộ 法Pháp潤nhuận 眾chúng 生sanh 故cố如như 金Kim 剛Cang 山Sơn眾chúng 魔ma 外ngoại 道đạo不bất 能năng 動động 故cố如như 梵Phạm 天Thiên 王Vương於ư 諸chư 善thiện 法Pháp最tối 上thượng 首thủ 故cố如như 尼ni 拘câu 類loại 樹thụ普phổ 覆phú 一nhất 切thiết 故cố如như 優ưu 曇đàm 鉢bát 華hoa希hy 有hữu 難nan 遇ngộ 故cố如như 金kim 翅sí 鳥điểu威uy 伏phục 外ngoại 道đạo 故cố如như 眾chúng 遊du 禽cầm無vô 所sở 藏tàng 積tích 故cố猶do 如như 牛ngưu 王vương無vô 能năng 勝thắng 故cố猶do 如như 象tượng 王vương善thiện 調điều 伏phục 故cố如như 師sư 子tử 王vương無vô 所sở 畏úy 故cố曠khoáng 若nhược 虛hư 空không大đại 慈từ 等đẳng 故cố
Các ngài:
- Ví như Tuyết Sơn vì chiếu soi các công đức đều bình đẳng và thanh tịnh.
- Ví như đại địa vì dơ sạch tốt xấu đều không có tâm phân biệt.
- Ví như nước trong vì tẩy trừ trần lao cấu nhiễm.
- Ví như hỏa vương vì thiêu đốt tất cả củi phiền não.
- Ví như gió lớn vì du hành thế giới không chướng ngại.
- Ví như hư không vì đối với mọi thứ đều không chấp trước.
- Ví như hoa sen vì tuy ở thế gian nhưng không bị nhiễm ô.
- Ví như Đại Thừa vì có thể chở quần manh ra khỏi sanh tử.
- Ví như mây dày vì có thể nổi sấm Pháp lớn để giác ngộ quần mê.
- Ví như mưa lớn vì tuôn mưa cam lộ để thấm nhuần chúng sanh.
- Ví như núi Kim Cang vì chúng ma và ngoại đạo chẳng thể lay chuyển.
- Ví như Đại Phạm Thiên Vương vì ở trong các Pháp lành là bậc tối thượng thủ.
- Ví như cây tung quảng vì che trùm tất cả.
- Ví như hoa linh thụy vì hy hữu khó gặp.
- Ví như kim sí điểu vì uy dũng hàng phục ngoại đạo.
- Ví như bầy chim phiêu du vì không tích chứa điều gì.
- Ví như ngưu vương vì không ai thắng nổi.
- Ví như tượng vương vì hay khéo điều phục.
- Ví như sư tử vương vì chẳng sợ bất cứ gì.
- Ví như hư không bao la vì lòng đại từ đối với tất cả.




摧tồi 滅diệt 嫉tật 心tâm不bất 望vọng 勝thắng 故cố專chuyên 樂nhạo 求cầu 法Pháp心tâm 無vô 厭yếm 足túc常thường 欲dục 廣quảng 說thuyết志chí 無vô 疲bì 倦quyện擊kích 法Pháp 鼓cổ建kiến 法Pháp 幢tràng曜diệu 慧tuệ 日nhật除trừ 癡si 闇ám修tu 六Lục 和Hòa 敬Kính常thường 行hành 法Pháp 施thí志chí 勇dũng 精tinh 進tấn心tâm 不bất 退thoái 弱nhược為vi 世thế 燈đăng 明minh最tối 勝thắng 福phước 田điền常thường 為vi 師sư 導đạo等đẳng 無vô 憎tăng 愛ái唯duy 樂nhạo 正Chánh 道Đạo無vô 餘dư 欣hân 戚thích拔bạt 諸chư 欲dục 刺thứ以dĩ 安an 群quần 生sanh功công 德đức 殊thù 勝thắng莫mạc 不bất 尊tôn 敬kính滅diệt 三tam 垢cấu 障chướng遊du 諸chư 神thần 通thông
Chư Bồ-tát diệt trừ tánh ganh ghét hơn thua, và luôn vui thích cầu Pháp mà lòng không bao giờ chán nản. Tâm của họ luôn muốn rộng tuyên thuyết Pháp mà không hề mỏi mệt. Các ngài đánh trống Pháp, dựng Pháp tràng, và chiếu sáng mặt trời trí tuệ để diệt trừ si ám. Siêng tu Sáu Pháp Hòa Kính và thường hành Pháp thí. Tâm của Bồ-tát dũng mãnh tinh tấn và không thoái chuyển, là đèn sáng của thế gian, là nơi phước điền tối thắng. Họ thường làm vị đạo sư bình đẳng và lòng không yêu ghét. Các ngài chỉ vui mến Chánh Đạo và đối với mọi thứ đều chẳng yêu thích. Chư Bồ-tát nhổ trừ cây gai ái dục để an định chúng sanh. Công đức của họ thù thắng và chẳng ai là không tôn kính. Các ngài khéo diệt trừ tham sân si nên được thần thông du hí tự tại.

因nhân 力lực 緣duyên 力lực意ý 力lực 願nguyện 力lực方phương 便tiện 之chi 力lực常thường 力lực 善thiện 力lực定định 力lực 慧tuệ 力lực多đa 聞văn 之chi 力lực施thí 戒giới 忍nhẫn 辱nhục精tinh 進tấn 禪thiền 定định智trí 慧tuệ 之chi 力lực正chánh 念niệm 止Chỉ 觀Quán諸chư 通thông 明minh 力lực如như 法Pháp 調điều 伏phục諸chư 眾chúng 生sanh 力lực如như 是thị 等đẳng 力lực一nhất 切thiết 具cụ 足túc
Chư Bồ-tát có nhân lực, duyên lực, ý lực, nguyện lực, phương tiện lực, thường lực, thiện lực, định lực, tuệ lực, đa văn lực, bố thí lực, trì giới lực, nhẫn nhục lực, tinh tấn lực, thiền định lực, trí tuệ lực, chánh niệm lực, Chỉ Quán lực, Ba Minh lực, Sáu Thần Thông lực, như Pháp điều phục chúng sanh lực. Các lực như thế thảy đều trọn đủ.

身thân 色sắc 相tướng 好hảo功công 德đức 辯biện 才tài具cụ 足túc 莊trang 嚴nghiêm無vô 與dữ 等đẳng 者giả恭cung 敬kính 供cúng 養dường無vô 量lượng 諸chư 佛Phật常thường 為vi 諸chư 佛Phật所sở 共cộng 稱xưng 歎thán究cứu 竟cánh 菩Bồ 薩Tát諸chư 波Ba 羅La 蜜Mật修tu 空Không無Vô 相Tướng無Vô 願Nguyện 三Tam 昧Muội不bất 生sanh 不bất 滅diệt諸chư 三tam 昧muội 門môn遠viễn 離ly 聲Thanh 聞Văn緣Duyên 覺Giác 之chi 地địa
Chư Bồ-tát có sắc thân với tướng hảo trang nghiêm, đầy đủ công đức biện tài, và chẳng ai có thể sánh kịp. Các ngài luôn cung kính cúng dường vô lượng chư Phật và thường được chư Phật đồng ngợi khen. Họ cứu cánh thành tựu các Pháp Đến Bờ Kia của Bồ-tát; tu Không, Vô Tướng, và Vô Nguyện Chánh Định; nhập các môn chánh định không sanh không diệt và lìa xa các địa của hàng Thanh Văn cùng bậc Duyên Giác.

阿A 難Nan彼bỉ 諸chư 菩Bồ 薩Tát成thành 就tựu 如như 是thị無vô 量lượng 功công 德đức我ngã 但đãn 為vì 汝nhữ略lược 言ngôn 之chi 耳nhĩ若nhược 廣quảng 說thuyết 者giả百bách 千thiên 萬vạn 劫kiếp不bất 能năng 窮cùng 盡tận
Này Khánh Hỷ! Chư Bồ-tát kia thành tựu vô lượng công đức như vậy. Ta vì ông nên mới lược nói như thế. Nếu Ta rộng nói thì dù cả một tỷ kiếp cũng không thể cùng tận."


Khuyên Cầu Vãng Sinh


佛Phật 告cáo 彌Di 勒Lặc 菩Bồ 薩Tát諸chư 天thiên 人nhân 等đẳng
Phật bảo Từ Thị Bồ-tát và hàng trời người:

無Vô 量Lượng 壽Thọ 國quốc聲Thanh 聞Văn 菩Bồ 薩Tát功công 德đức 智trí 慧tuệ不bất 可khả 稱xưng 說thuyết
"Chư Bồ-tát và hàng Thanh Văn ở cõi nước của Đức Phật Vô Lượng Thọ có công đức và trí tuệ chẳng sao kể cho xuể.

又hựu 其kỳ 國quốc 土độ微vi 妙diệu 安an 樂lạc清thanh 淨tịnh 若nhược 此thử何hà 不bất 力lực 為vi 善thiện念niệm 道Đạo 之chi 自tự 然nhiên著trước 於ư 無vô 上thượng 下hạ洞đỗng 達đạt 無vô 邊biên 際tế宜nghi 各các 勤cần 精tinh 進tấn努nỗ 力lực 自tự 求cầu 之chi必tất 得đắc 超siêu 絕tuyệt 去khứ往vãng 生sanh 安An 養Dưỡng 國Quốc橫hoành 截tiệt 五ngũ 惡ác 趣thú惡ác 趣thú 自tự 然nhiên 閉bế昇thăng 道Đạo 無vô 窮cùng 極cực易dị 往vãng 而nhi 無vô 人nhân其kỳ 國quốc 不bất 逆nghịch 違vi自tự 然nhiên 之chi 所sở 牽khiên何hà 不bất 棄khí 世thế 事sự勤cần 行hành 求cầu 道Đạo 德đức可khả 獲hoạch 極cực 長trường 生sanh壽thọ 樂lạc 無vô 有hữu 極cực
Lại nữa, quốc độ ấy thanh tịnh và an vui vi diệu. Tại sao chúng sanh không dốc sức làm lành và tưởng mến Đạo? Đạo là viên dung vô ngại, không có sự phân biệt cao thấp. Nếu có ai dũng mãnh tinh tấn, nỗ lực cầu Đạo thì nhất định sẽ vượt khỏi thế gian và vãng sanh về nước An Dưỡng. Năm đường ác sẽ tự nhiên đóng bít và đoạn tuyệt. Tuy Đạo vô thượng dễ đến nhưng mấy ai muốn hành. Dù tịnh độ không gì ngăn nhưng mấy ai tới được. Vì sao người đời không buông bỏ thế sự, tinh tấn tu hành cầu Đạo để có thể đắc trường sanh bất diệt và thọ hưởng vô tận an vui."


Năm Đường Ác


然nhiên 世thế 人nhân 薄bạc 俗tục共cộng 諍tranh 不bất 急cấp 之chi 事sự於ư 此thử 劇kịch 惡ác極cực 苦khổ 之chi 中trung勤cần 身thân 營doanh 務vụ以dĩ 自tự 給cấp 濟tế無vô 尊tôn 無vô 卑ty無vô 貧bần 無vô 富phú少thiếu 長trưởng 男nam 女nữ共cộng 憂ưu 錢tiền 財tài有hữu 無vô 同đồng 然nhiên憂ưu 思tư 適thích 等đẳng屏bính 營doanh 愁sầu 苦khổ累lũy 念niệm 積tích 慮lự為vị 心tâm 走tẩu 使sử無vô 有hữu 安an 時thời
"Thế nhưng, người đời thì nông cạn và chỉ tranh giành những việc nhỏ nhen. Trong đời cực ác lắm khổ, họ cần cù tìm kế sanh nhai. Giàu sang nghèo hèn, nam nữ già trẻ, thảy đều toan nghĩ tiền tài. Dù có của hay không, họ cũng đều ưu tư giống nhau. Rồi những lo sợ sầu khổ ấy ngày thêm chồng chất. Họ bị tâm si mê sai khiến và chẳng lúc nào được thảnh thơi.

有hữu 田điền 憂ưu 田điền有hữu 宅trạch 憂ưu 宅trạch牛ngưu 馬mã 六lục 畜súc奴nô 婢tỳ 錢tiền 財tài衣y 食thực 什thập 物vật復phục 共cộng 憂ưu 之chi重trùng 思tư 累lũy 息tức憂ưu 念niệm 愁sầu 怖bố
Người có ruộng lo ruộng. Kẻ có nhà lo nhà. Cho đến tiền tài nô tỳ, y phục ẩm thực, trâu ngựa hay súc vật, thì thảy đều lo âu. Ngày qua ngày thêm lo nghĩ và luôn sống trong sự sợ hãi sầu muộn.

橫hoạnh 為vị 非phi 常thường水thủy 火hỏa 盜đạo 賊tặc怨oán 家gia 債trái 主chủ焚phần 漂phiêu 劫kiếp 奪đoạt消tiêu 散tán 磨ma 滅diệt憂ưu 毒độc 忪chung 忪chung無vô 有hữu 解giải 時thời結kết 憤phẫn 心tâm 中trung不bất 離ly 憂ưu 惱não心tâm 堅kiên 意ý 固cố適thích 無vô 縱túng 捨xả或hoặc 坐tọa 摧tồi 碎toái身thân 亡vong 命mạng 終chung棄khí 捐quyên 之chi 去khứ莫mạc 誰thùy 隨tùy 者giả
Thình lình như bị nước cuốn trôi, lửa thiêu cháy rụi, hoặc bị giặc cướp hay oan gia trái chủ cướp đoạt. Mọi thứ đều tiêu tan mất sạch, lo lắng khôn nguôi. Những phẫn uất kết tập trong lòng càng thêm buồn bã. Tâm ý họ kiên cố và mãi bám víu vào những đồ vật mà chẳng chịu rời xa. Thế rồi cái chết đến và thân này mất đi, mọi thứ đều phải bỏ lại và chẳng mang theo được gì.

尊tôn 貴quý 豪hào 富phú亦diệc 有hữu 斯tư 患hoạn憂ưu 懼cụ 萬vạn 端đoan勤cần 苦khổ 若nhược 此thử結kết 眾chúng 寒hàn 熱nhiệt與dữ 痛thống 共cộng 俱câu貧bần 窮cùng 下hạ 劣liệt困khốn 乏phạp 常thường 無vô無vô 田điền 亦diệc 憂ưu 欲dục 有hữu 田điền無vô 宅trạch 亦diệc 憂ưu 欲dục 有hữu 宅trạch無vô 牛ngưu 馬mã 六lục 畜súc奴nô 婢tỳ 錢tiền 財tài衣y 食thực 什thập 物vật亦diệc 憂ưu 欲dục 有hữu 之chi適thích 有hữu 一nhất復phục 少thiểu 一nhất有hữu 是thị 少thiểu 是thị思tư 有hữu 齊tề 等đẳng適thích 欲dục 具cụ 有hữu便tiện 復phục 糜mi 散tán如như 是thị 憂ưu 苦khổ當đương 復phục 求cầu 索sách不bất 能năng 時thời 得đắc思tư 想tưởng 無vô 益ích身thân 心tâm 俱câu 勞lao坐tọa 起khởi 不bất 安an憂ưu 念niệm 相tương 隨tùy勤cần 苦khổ 若nhược 此thử亦diệc 結kết 眾chúng 寒hàn 熱nhiệt與dữ 痛thống 共cộng 俱câu或hoặc 時thời 坐tọa 之chi終chung 身thân 夭yểu 命mạng
Người giàu sang tôn quý cũng có hoạn nạn như nhau và cũng làm cho họ muôn phần lo sợ. Rồi dẫn tới nảy sanh những chứng bệnh nóng lạnh và phải chịu khổ sở. Kẻ bần cùng hạ tiện thì luôn bị thiếu hụt. Kẻ không có ruộng thì lo nghĩ muốn ruộng. Kẻ không có nhà thì lo nghĩ muốn nhà. Kẻ không có tiền tài nô tỳ, y phục ẩm thực, trâu ngựa hay súc vật thì cũng lo nghĩ muốn có. Hoặc có cái này nhưng lại thiếu cái kia. Hoặc có những thứ kia nhưng lại hụt các thứ khác. Họ toan nghĩ muốn được tất cả. Nhưng một mai có đủ thì liền hư hoại. Vì thế mà khổ đau và lại tiếp tục mong cầu, nhưng chẳng thể nào đạt được. Họ toan tính nhưng chỉ là vô ích và chỉ làm khổ nhọc thân tâm, đứng ngồi không yên, lo nghĩ liên miên. Rồi dần dần sanh ra các chứng bệnh nóng lạnh và phải chịu đau đớn khổ sở đến phải mất mạng hoặc bị chết yểu.

不bất 肯khẳng 為vi 善thiện行hành 道Đạo 進tiến 德đức壽thọ 終chung 身thân 死tử當đương 獨độc 遠viễn 去khứ有hữu 所sở 趣thú 向hướng善thiện 惡ác 之chi 道đạo莫mạc 能năng 知tri 者giả
Vì chẳng chịu làm lành hay tu Đạo lập đức nên lúc mạng chung, họ phải đơn độc sanh đến cõi giới thấp hơn. Chốn lành nẻo ác, họ đều chẳng biết.

世thế 間gian 人nhân 民dân父phụ 子tử 兄huynh 弟đệ夫phu 婦phụ 家gia 室thất中trung 外ngoại 親thân 屬thuộc當đương 相tương 敬kính 愛ái無vô 相tương 憎tăng 嫉tật有hữu 無vô 相tương 通thông無vô 得đắc 貪tham 惜tích言ngôn 色sắc 常thường 和hòa莫mạc 相tương 違vi 戾lệ
Người đời thế gian--cha mẹ anh em, vợ chồng con cái, thân bằng quyến thuộc--phải nên hòa thuận kính mến và chớ ganh ghét. Phải nên giúp đỡ lẫn nhau và chớ tham lam bỏn xẻn. Phải nên ăn nói hòa nhã và chớ thô cộc cay cú.

或hoặc 時thời 心tâm 諍tranh有hữu 所sở 恚khuể 怒nộ今kim 世thế 恨hận 意ý微vi 相tương 憎tăng 嫉tật後hậu 世thế 轉chuyển 劇kịch至chí 成thành 大đại 怨oán
Phàm ai có tâm tranh thì hiện đời tánh nóng giận đó sẽ bộc phát ra sự thù hận và lòng ganh ghét. Rồi đời sau sẽ chuyển thành đại oán thù.

所sở 以dĩ 者giả 何hà世thế 間gian 之chi 事sự更cánh 相tương 患hoạn 害hại雖tuy 不bất 即tức 時thời應ứng 急cấp 相tương 破phá然nhiên 含hàm 毒độc 畜súc 怒nộ結kết 憤phẫn 精tinh 神thần自tự 然nhiên 剋khắc 識thức不bất 得đắc 相tương 離ly皆giai 當đương 對đối 生sanh更cánh 相tương 報báo 復phục
Vì sao thế? Bởi có những sự tương tàn trên thế gian, tuy không lập tức trở thành nỗi bi thương tàn khốc, nhưng độc tánh của phẫn nộ sẽ kết thành phẫn uất và lưu lại trong tạng thức. Đời này sang đời khác sẽ chẳng thể rời xa. Lúc sanh ra thì luôn đối nghịch và hỗ tương báo thù.




人nhân 在tại 世thế 間gian愛ái 欲dục 之chi 中trung獨độc 生sanh 獨độc 死tử獨độc 去khứ 獨độc 來lai當đương 行hành 至chí 趣thú苦khổ 樂lạc 之chi 地địa身thân 自tự 當đương 之chi無vô 有hữu 代đại 者giả善thiện 惡ác 變biến 化hóa殃ương 福phước 異dị 處xứ宿túc 豫dự 嚴nghiêm 待đãi當đương 獨độc 趣thú 入nhập遠viễn 到đáo 他tha 所sở莫mạc 能năng 見kiến 者giả善thiện 惡ác 自tự 然nhiên追truy 行hành 所sở 生sanh窈yểu 窈yểu 冥minh 冥minh別biệt 離ly 久cửu 長trường道đạo 路lộ 不bất 同đồng會hội 見kiến 無vô 期kỳ甚thậm 難nan 甚thậm 難nan復phục 得đắc 相tương 值trị何hà 不bất 棄khí 眾chúng 事sự各các 遇ngộ 強cường 健kiện 時thời努nỗ 力lực 勤cần 修tu 善thiện精tinh 進tấn 願nguyện 度độ 世thế可khả 得đắc 極cực 長trường 生sanh如như 何hà 不bất 求cầu 道Đạo安an 所sở 須tu 待đãi欲dục 何hà 樂lạc 乎hồ
Ở thế gian, con người chìm đắm trong ái dục. Tự sanh tự diệt, tự đến tự đi. Lặn hụp trong sanh tử, khổ vui tự thọ và không ai có thể thay thế. Làm thiện được phước lành, làm ác gặp tai ương. Nghiệp quả đời trước luôn sẵn chực chờ và chẳng thể thấy biết. Hoặc giả là sẽ tự mình đọa vào hố sâu thẳm. Nghiệp lành nghiệp dữ, đạo lộ bất đồng, đường ai nẻo nấy, mờ mờ mịt mịt, cách xa muôn trùng, và thật khó khăn muôn vàn để hội ngộ gặp nhau. Vì sao người đời không buông bỏ thế sự và nhân lúc còn khỏe mạnh mà nỗ lực tu thiện? Như quả có thể tinh tấn và nguyện cứu nhân độ thế, họ được trường sanh bất tử. Vì sao người đời không cầu Đạo? Hà tất phải rong ruổi những dục lạc mông lung?

如như 是thị 世thế 人nhân不bất 信tín 作tác 善thiện 得đắc 善thiện為vi 道Đạo 得đắc 道Đạo不bất 信tín 人nhân 死tử 更cánh 生sanh惠huệ 施thí 得đắc 福phước善thiện 惡ác 之chi 事sự都đô 不bất 信tín 之chi謂vị 之chi 不bất 然nhiên終chung 無vô 有hữu 是thị但đãn 坐tọa 此thử 故cố且thả 自tự 見kiến 之chi更cánh 相tương 瞻chiêm 視thị先tiên 後hậu 同đồng 然nhiên轉chuyển 相tương 承thừa 受thọ父phụ 餘dư 教giáo 令lệnh先tiên 人nhân 祖tổ 父phụ素tố 不bất 為vi 善thiện不bất 識thức 道Đạo 德đức身thân 愚ngu 神thần 闇ám心tâm 塞tắc 意ý 閉bế死tử 生sanh 之chi 趣thú善thiện 惡ác 之chi 道đạo自tự 不bất 能năng 見kiến無vô 有hữu 語ngữ 者giả吉cát 凶hung 禍họa 福phước競cạnh 各các 作tác 之chi無vô 一nhất 怪quái 也dã
Thế nhưng, người đời không tin làm thiện sẽ được lành, tu Đạo sẽ đắc Đạo, chẳng tin sanh tử luân hồi, bố thí được phước. Tất cả các việc lành dữ đều không tin và còn cho rằng thảy đều chẳng có thật. Họ bám vào cái thấy lệch lạc và hờ hững ngóng trông. Từ thế hệ này đến thế hệ khác, cha truyền con nối, cùng nhau truyền dạy điều sai lầm. Từ đời tổ tiên cha ông đã không làm việc thiện và chẳng biết Đạo là gì. Họ bị si mê che lấp, sanh tử thiện ác chẳng thể tự thấy, và không có ai mách bảo giùm. Bất kể là việc cát hung hay họa phước, họ đều tranh đua làm mà chẳng một ai thấy có điều chi kỳ quái cả.




生sanh 死tử 常thường 道đạo轉chuyển 相tương 嗣tự 立lập或hoặc 父phụ 哭khốc 子tử或hoặc 子tử 哭khốc 父phụ兄huynh 弟đệ 夫phu 婦phụ更cánh 相tương 哭khốc 泣khấp顛điên 倒đảo 上thượng 下hạ無vô 常thường 根căn 本bổn皆giai 當đương 過quá 去khứ不bất 可khả 常thường 保bảo教giáo 語ngữ 開khai 導đạo信tín 之chi 者giả 少thiểu是thị 以dĩ 生sanh 死tử 流lưu 轉chuyển無vô 有hữu 休hưu 止chỉ如như 此thử 之chi 人nhân曚mông 冥minh 抵để 突đột不bất 信tín 經Kinh 法Pháp心tâm 無vô 遠viễn 慮lự各các 欲dục 快khoái 意ý癡si 惑hoặc 於ư 愛ái 欲dục不bất 達đạt 於ư 道Đạo 德đức迷mê 沒một 於ư 瞋sân 怒nộ貪tham 狼lang 於ư 財tài 色sắc坐tọa 之chi 不bất 得đắc 道Đạo當đương 更cánh 惡ác 趣thú 苦khổ生sanh 死tử 無vô 窮cùng 已dĩ哀ai 哉tai 甚thậm 可khả 傷thương
Sống chết là sự tiếp nối tương tục của lẽ đạo thường tình. Hoặc cha khóc mất con; hoặc con khóc mất cha. Anh em vợ chồng, ngậm ngùi khóc than, tâm trí điên đảo. Bởi là định luật của vô thường nên cái chết xảy đến bất kỳ. Mọi thứ đều lìa tan và chẳng gì tồn tại mãi. Mặc dù đã có thiện hữu dạy bảo nhưng mấy ai thật tin hiểu. Thế nên cứ lưu chuyển không ngừng trong vòng sanh tử. Người si độn như thế thì chẳng thể tin Kinh Pháp. Tâm chẳng lo nghĩ xa mà chỉ vội chạy theo ý muốn. Họ si mê trong ái dục nên chẳng thông đạt Đạo Pháp. Mê muội sân hận cùng tham lam tài sắc. Bởi không tương ứng với Đạo nên phải thọ khổ ở đường ác và lẩn quẩn trong sanh tử vô cùng tận. Thật quả đáng thương thay!

或hoặc 時thời 室thất 家gia 父phụ 子tử兄huynh 弟đệ 夫phu 婦phụ一nhất 死tử 一nhất 生sanh更cánh 相tương 哀ai 愍mẫn恩ân 愛ái 思tư 慕mộ憂ưu 念niệm 結kết 縛phược心tâm 意ý 痛thống 著trước迭điệt 相tương 顧cố 戀luyến窮cùng 日nhật 卒tuất 歲tuế無vô 有hữu 解giải 已dĩ教giáo 語ngữ 道Đạo 德đức心tâm 不bất 開khai 明minh思tư 想tưởng 恩ân 好hảo不bất 離ly 情tình 欲dục昏hôn 曚mông 閉bế 塞tắc愚ngu 惑hoặc 所sở 覆phú不bất 能năng 深thâm 思tư 熟thục 計kế心tâm 自tự 端đoan 政chánh專chuyên 精tinh 行hành 道Đạo決quyết 斷đoạn 世thế 事sự便tiện 旋toàn 至chí 竟cánh年niên 壽thọ 終chung 盡tận不bất 能năng 得đắc 道Đạo
Hoặc giả như trong gia đình mất đi người cha hay đứa con, anh chị em, hoặc vợ hay chồng, người cốt nhục bùi ngùi thương xót, nhớ thương quyến luyến, và kết thành nỗi nhớ nhung. Năm tháng trôi qua, ngày thêm đau nhói, cõi lòng siết chặt đến chẳng thể nào giải tỏa. Dù có người dạy bảo Đạo lý cho nhưng tâm họ chẳng thể khai mở, bởi cõi lòng vẫn còn nghĩ ngợi đến ái ân và không thể lìa khỏi ái tình lục dục. Do hôn ám mờ mịt cùng si mê che khuất, họ không thể tư duy cùng hạ quyết tâm đoạn trừ thế sự và chuyên tâm tu Đạo. Thoáng chốc thì họ mạng chung và chẳng thể đắc Đạo.

無vô 可khả 奈nại 何hà總tổng 猥ổi 憒hội 擾nhiễu皆giai 貪tham 愛ái 欲dục惑hoặc 道đạo 者giả 眾chúng悟ngộ 之chi 者giả 寡quả世thế 間gian 怱thông 怱thông無vô 可khả 聊liêu 賴lại尊tôn 卑ty 上thượng 下hạ貧bần 富phú 貴quý 賤tiện勤cần 苦khổ 怱thông 務vụ各các 懷hoài 殺sát 毒độc惡ác 氣khí 窈yểu 冥minh為vi 妄vọng 興hưng 事sự違vi 逆nghịch 天thiên 地địa不bất 從tùng 人nhân 心tâm自tự 然nhiên 非phi 惡ác先tiên 隨tùy 與dữ 之chi恣tứ 聽thính 所sở 為vi待đãi 其kỳ 罪tội 極cực其kỳ 壽thọ 未vị 盡tận便tiện 頓đốn 奪đoạt 之chi下hạ 入nhập 惡ác 道đạo累lũy 世thế 懟đỗi 苦khổ展triển 轉chuyển 其kỳ 中trung數sổ 千thiên 億ức 劫kiếp無vô 有hữu 出xuất 期kỳ痛thống 不bất 可khả 言ngôn甚thậm 可khả 哀ai 愍mẫn
Do bởi mê muội, họ si ái tham dục. Kẻ si mê thì nhiều mà người tỉnh ngộ có mấy ai. Trong thế gian mông lung, không gì có thể cậy trông. Người trên kẻ dưới, sang hèn quý tiện, lăng xăng bận rộn. Ai nấy đều ôm lòng giết hại, ác khí mịt mù, đầy rẫy những sự trái nghịch trời đất, và chẳng thuận tình người. Thọ mạng lẽ ra chưa tận, nhưng do phóng túng và làm theo điều ác, cho nên khi nghiệp tội cao ngất thì bỗng dưng chết mất. Rồi phải đọa đường ác, đời đời chịu khổ và lưu chuyển không ngừng đến nhiều ngàn ức kiếp mà chẳng có kỳ hạn ra khỏi. Khổ không thể tả xiết, quả đáng thương xót thay!"


Lời Răn Dạy của Phật


佛Phật 告cáo 彌Di 勒Lặc 菩Bồ 薩Tát諸chư 天thiên 人nhân 等đẳng
Phật bảo Từ Thị Bồ-tát và hàng trời người:

我ngã 今kim 語ngứ 汝nhữ世thế 間gian 之chi 事sự人nhân 用dụng 是thị 故cố坐tọa 不bất 得đắc 道Đạo當đương 熟thục 思tư 計kế遠viễn 離ly 眾chúng 惡ác擇trạch 其kỳ 善thiện 者giả勤cần 而nhi 行hành 之chi愛ái 欲dục 榮vinh 華hoa不bất 可khả 常thường 保bảo皆giai 當đương 別biệt 離ly無vô 可khả 樂lạc 者giả遇ngộ 佛Phật 在tại 世thế當đương 勤cần 精tinh 進tấn其kỳ 有hữu 至chí 願nguyện生sanh 安An 樂Lạc 國Quốc 者giả可khả 得đắc 智trí 慧tuệ 明minh 達đạt功công 德đức 殊thù 勝thắng勿vật 得đắc 隨tùy 心tâm 所sở 欲dục虧khuy 負phụ 經Kinh 戒giới在tại 人nhân 後hậu 也dã儻thảng 有hữu 疑nghi 意ý不bất 解giải 經Kinh 者giả可khả 具cụ 問vấn 佛Phật當đương 為vì 說thuyết 之chi
"Ta nay thuyết giảng về những việc của thế gian cho các ông rõ. Những ai như thế thì chẳng thể đắc Đạo. Đại chúng phải tư duy tường tận, hãy xa lìa các việc ác và siêng làm những việc lành. Ái dục vinh hoa vốn chẳng thể còn mãi. Chúng rồi sẽ tan biến và không thể mang lại hạnh phúc. Những ai gặp Phật tại thế thì phải nên tinh tấn. Những ai có chí nguyện muốn sanh về cõi Cực Lạc, họ được trí tuệ sáng suốt và công đức thù thắng. Đại chúng chớ buông xuôi theo lòng dục vọng mà xa rời Kinh giới và tụt lại đằng sau người khác. Nếu có nghi vấn gì về Kinh này thì có thể hỏi Như Lai và Ta sẽ thuyết giảng cho các ông."

彌Di 勒Lặc 菩Bồ 薩Tát長trường 跪quỵ 白bạch 言ngôn
Khi ấy Từ Thị Bồ-tát quỳ hai gối và bạch rằng:

佛Phật 威uy 神thần 尊tôn 重trọng所sở 說thuyết 快khoái 善thiện聽thính 佛Phật 經Kinh 者giả貫quán 心tâm 思tư 之chi世thế 人nhân 實thật 爾nhĩ如như 佛Phật 所sở 言ngôn今kim 佛Phật 慈từ 愍mẫn顯hiển 示thị 大Đại 道Đạo耳nhĩ 目mục 開khai 明minh長trường 得đắc 度độ 脫thoát聞văn 佛Phật 所sở 說thuyết莫mạc 不bất 歡hoan 喜hỷ諸chư 天thiên 人nhân 民dân蠕nhuyễn 動động 之chi 類loại皆giai 蒙mông 慈từ 恩ân解giải 脫thoát 憂ưu 苦khổ佛Phật 語ngữ 教giáo 誡giới甚thậm 深thâm 甚thậm 善thiện智trí 慧tuệ 明minh 見kiến八bát 方phương 上thượng 下hạ去khứ 來lai 今kim 事sự莫mạc 不bất 究cứu 暢sướng今kim 我ngã 眾chúng 等đẳng所sở 以dĩ 蒙mông 得đắc 度độ 脫thoát皆giai 佛Phật 前tiền 世thế求cầu 道Đạo 之chi 時thời謙khiêm 苦khổ 所sở 致trí恩ân 德đức 普phổ 覆phú福phước 祿lộc 巍nguy 巍nguy光quang 明minh 徹triệt 照chiếu達đạt 空không 無vô 極cực開khai 入nhập 泥Nê 洹Hoàn教giáo 授thọ 典điển 攬lãm威uy 制chế 消tiêu 化hóa感cảm 動động 十thập 方phương無vô 窮cùng 無vô 極cực佛Phật 為vi 法Pháp 王Vương尊tôn 超siêu 眾chúng 聖thánh普phổ 為vi 一nhất 切thiết天thiên 人nhân 之chi 師sư隨tùy 心tâm 所sở 願nguyện皆giai 令linh 得đắc 道Đạo今kim 得đắc 值trị 佛Phật復phục 聞văn 無Vô 量Lượng 壽Thọ 聲thanh靡mĩ 不bất 歡hoan 喜hỷ心tâm 得đắc 開khai 明minh
"Uy thần của Phật tôn nghiêm, lời nói chân thiện. Khi con nghe qua lời Phật dạy, tâm quán sát tư duy và người đời thật đúng như lời Phật đã nói. Bởi lòng từ mẫn, nay Đức Phật hiển thị Đại Đạo, khiến cho tai mắt của chúng con mở sáng và mãi được độ thoát. Khi nghe lời Phật dạy, không ai là chẳng hoan hỷ. Hàng trời người và cho đến các loài sâu bọ thảy đều nhờ ân đức của Phật mà thoát khỏi ưu sầu khổ não. Lời răn dạy của Phật rất thâm sâu và hiền từ. Trí tuệ chiếu soi hết thảy những việc quá khứ, hiện tại, cùng vị lai trong mười phương mà không gì là chẳng rõ thông. Sở dĩ hôm nay chúng con được nhờ ơn cứu độ, đây đều là do nhân khiêm nhường và nhẫn chịu gian khổ cầu Đạo của Phật thuở trước. Ân đức phủ khắp và phước lành bao la. Ánh quang minh chiếu triệt, thông đạt pháp không, và khai mở Đạo tịch diệt. Lời dạy tôn nghiêm, từ bi giáo hóa cảm động vang khắp mười phương. Phật là Pháp Vương, là bậc tôn quý nhất trong hàng thánh, và rộng làm thầy của tất cả trời người. Như Lai tùy theo sở nguyện của họ mà đều làm cho đắc Đạo. Nay chúng con gặp Phật, lại nghe về Đức Phật Vô Lượng Thọ, tâm được mở sáng và không ai là chẳng vui mừng."

佛Phật 告cáo 彌Di 勒Lặc
Phật bảo ngài Từ Thị:

汝nhữ 言ngôn 是thị 也dã若nhược 有hữu 慈từ 敬kính 於ư 佛Phật 者giả實thật 為vi 大đại 善thiện天thiên 下hạ 久cửu 久cửu乃nãi 復phục 有hữu 佛Phật今kim 我ngã 於ư 此thử 世thế 作tác 佛Phật演diễn 說thuyết 經Kinh 法Pháp宣tuyên 布bố 道Đạo 教giáo斷đoạn 諸chư 疑nghi 網võng拔bạt 愛ái 欲dục 之chi 本bổn杜đỗ 眾chúng 惡ác 之chi 源nguyên遊du 步bộ 三tam 界giới無vô 所sở 拘câu 閡ngại典điển 攬lãm 智trí 慧tuệ眾chúng 道Đạo 之chi 要yếu執chấp 持trì 綱cương 維duy昭chiêu 然nhiên 分phân 明minh開khai 示thị 五ngũ 趣thú度độ 未vị 度độ 者giả決quyết 正chánh 生sanh 死tử泥Nê 洹Hoàn 之chi 道Đạo
"Đúng như lời ông nói. Nếu có ai kính lễ chư Phật thì thật là một việc thiện lớn lao. Bởi vì rất lâu mới có một vị Phật xuất hiện ở thế gian. Ta nay ở thế giới này làm Phật, diễn nói Kinh Pháp, rộng tuyên giáo Pháp, đoạn các lưới nghi, nhổ trừ nguồn gốc của ái dục, lấp bít căn nguyên của tà ác, và du hành trong ba cõi không chướng ngại. Ta dùng Nhất Thiết Trí để chỉ dạy trọng yếu của Đạo và giảng giải rành rẽ. Khai thị năm đường ác, hóa độ người chưa hóa độ để giúp họ bước lên Chánh Đạo và từ sanh tử thẳng đến tịch diệt.

彌Di 勒Lặc 當đương 知tri汝nhữ 從tùng 無vô 數số 劫kiếp 來lai修tu 菩Bồ 薩Tát 行hạnh欲dục 度độ 眾chúng 生sanh其kỳ 已dĩ 久cửu 遠viễn從tùng 汝nhữ 得đắc 道Đạo至chí 于vu 泥Nê 洹Hoàn不bất 可khả 稱xưng 數số汝nhữ 及cập 十thập 方phương諸chư 天thiên 人nhân 民dân一nhất 切thiết 四tứ 眾chúng永vĩnh 劫kiếp 已dĩ 來lai展triển 轉chuyển 五ngũ 道đạo憂ưu 畏úy 勤cần 苦khổ不bất 可khả 具cụ 言ngôn乃nãi 至chí 今kim 世thế生sanh 死tử 不bất 絕tuyệt與dữ 佛Phật 相tương 值trị聽thính 受thọ 經Kinh 法Pháp又hựu 復phục 得đắc 聞văn無Vô 量Lượng 壽Thọ 佛Phật快khoái 哉tai 甚thậm 善thiện吾ngô 助trợ 爾nhĩ 喜hỷ
Này Từ Thị! Nên biết rằng, ông đã tu hạnh Bồ-tát từ vô số kiếp đến nay. Từ xa xưa, ông đã phát tâm muốn độ chúng sanh. Những chúng sanh được giáo hóa khi ông thành Đạo cho đến lúc vào tịch diệt thì nhiều chẳng kể xiết. Ông cùng hàng trời người trong mười phương và hết thảy bốn chúng đệ tử đã lưu chuyển trong năm đường từ kiếp vô thỉ đến nay. Những sự lo sợ cùng khổ đau thì không thể nào nói cho xuể. Và mãi đến đời hiện tại, ông vẫn chưa đoạn dứt sanh tử. Tuy nhiên, ông đã gặp Phật và nghe Pháp thọ trì. Ông lại được nghe về Đức Phật Vô Lượng Thọ. Thật là vui lành thay. Ta sẽ hỗ trợ điều ông vui làm.

汝nhữ 今kim 亦diệc 可khả自tự 厭yếm 生sanh 死tử老lão 病bệnh 痛thống 苦khổ惡ác 露lộ 不bất 淨tịnh無vô 可khả 樂lạc 者giả宜nghi 自tự 決quyết 斷đoán端đoan 身thân 正chánh 行hạnh益ích 作tác 諸chư 善thiện修tu 己kỷ 潔khiết 體thể洗tẩy 除trừ 心tâm 垢cấu言ngôn 行hành 忠trung 信tín表biểu 裏lý 相tương 應ứng人nhân 能năng 自tự 度độ轉chuyển 相tương 拯chửng 濟tế精tinh 明minh 求cầu 願nguyện積tích 累lũy 善thiện 本bổn雖tuy 一nhất 世thế 勤cần 苦khổ須tu 臾du 之chi 間gian後hậu 生sanh 無Vô 量Lượng 壽Thọ 佛Phật 國quốc快khoái 樂lạc 無vô 極cực長trường 與dữ 道Đạo 德đức 合hợp 明minh永vĩnh 拔bạt 生sanh 死tử 根căn 本bổn無vô 復phục 貪tham 恚khuể 愚ngu 癡si苦khổ 惱não 之chi 患hoạn欲dục 壽thọ 一nhất 劫kiếp 百bách 劫kiếp千thiên 億ức 萬vạn 劫kiếp自tự 在tại 隨tùy 意ý皆giai 可khả 得đắc 之chi無vô 為vi 自tự 然nhiên次thứ 於ư 泥Nê 洹Hoàn 之chi 道Đạo
Nay đại chúng cũng nên nhàm chán thống khổ của sanh già bệnh chết và đường ác bất tịnh, bởi chúng không thể mang lại an vui. Hãy nên quyết tâm tu các hạnh chân chánh, làm mọi điều lành, tu tâm dưỡng tánh, tẩy trừ lòng cấu dơ, ngôn hạnh trung tín, và trong ngoài tương ứng. Hãy tự độ và độ tha, tinh tấn tu hành, và tích lũy thiện căn. Tuy đời này chịu cực khổ tu hành, nhưng thời gian sẽ thoáng trôi qua. Đời sau sẽ sanh về cõi nước của Đức Phật Vô Lượng Thọ và thọ hưởng vô lượng an vui. Lại luôn khế hợp với Đạo và tuyệt trừ nguồn gốc của sanh tử, không có tham sân si và các khổ nạn. Lúc ấy, như muốn thọ mạng dài một kiếp, trăm kiếp, hay ngàn ức vạn kiếp thì đều được tùy ý tự tại, và vô vi tự nhiên chỉ kế sau cảnh giới của tịch diệt.

汝nhữ 等đẳng 宜nghi 各các 精tinh 進tấn求cầu 心tâm 所sở 願nguyện無vô 得đắc 疑nghi 惑hoặc 中trung 悔hối自tự 為vi 過quá 咎cữu生sanh 彼bỉ 邊biên 地địa七thất 寶bảo 宮cung 殿điện五ngũ 百bách 歲tuế 中trung受thọ 諸chư 厄ách 也dã
Các ông mỗi người nên tinh tấn để đạt thành tâm nguyện của mình. Giả như có lòng hoài nghi, hối tiếc, hay phạm lỗi lầm thì sẽ sanh ở nơi biên địa của cõi nước kia, phải ở trong cung điện bảy báu và thọ những khổ ách đến 500 năm."

彌Di 勒Lặc 白bạch 言ngôn
Ngài Từ Thị bạch rằng:

受thọ 佛Phật 重trọng 誨hối專chuyên 精tinh 修tu 學học如như 教giáo 奉phụng 行hành不bất 敢cảm 有hữu 疑nghi
"Chúng con xin thọ trì lời dạy bảo ân trọng của Phật, sẽ tinh tấn tu học, như giáo phụng hành, và chẳng dám có lòng hoài nghi."


Năm Việc Ác và Năm Điều Thiện


佛Phật 告cáo 彌Di 勒Lặc
Phật bảo ngài Từ Thị:

汝nhữ 等đẳng 能năng 於ư 此thử 世thế端đoan 心tâm 正chánh 意ý不bất 作tác 眾chúng 惡ác甚thậm 為vi 至chí 德đức十thập 方phương 世thế 界giới最tối 無vô 倫luân 匹thất
"Nếu các ông có thể ở trong đời này với tâm ngay ý thẳng, không làm các điều ác thì sẽ được công đức tối thắng và khắp các thế giới trong mười phương chẳng một ai sánh bằng.

所sở 以dĩ 者giả 何hà諸chư 佛Phật 國quốc 土độ天thiên 人nhân 之chi 類loại自tự 然nhiên 作tác 善thiện不bất 大đại 為vi 惡ác易dị 可khả 開khai 化hóa今kim 我ngã 於ư 此thử世thế 間gian 作tác 佛Phật處xử 於ư 五ngũ 惡ác 五ngũ 痛thống五ngũ 燒thiêu 之chi 中trung為vi 最tối 劇kịch 苦khổ教giáo 化hóa 群quần 生sanh令linh 捨xả 五ngũ 惡ác令linh 去khứ 五ngũ 痛thống令linh 離ly 五ngũ 燒thiêu降hàng 化hóa 其kỳ 意ý令linh 持trì 五ngũ 善thiện獲hoạch 其kỳ 福phước 德đức度độ 世thế 長trường 壽thọ泥Nê 洹Hoàn 之chi 道Đạo
Vì sao thế? Bởi trời người trong các quốc độ của chư Phật đều tự nhiên làm việc thiện, chẳng ai làm điều ác, và giáo hóa dễ dàng. Ta nay ở tại thế giới này làm Phật--trong đời của năm việc xấu ác, năm loại thống khổ, và năm sự thiêu đốt--để giáo hóa chúng sanh. Đây thật khổ nhọc vô vàn. Ta khiến họ rời năm việc xấu ác, xa năm loại thống khổ, và lìa năm sự thiêu đốt. Hóa độ và điều phục tâm ý họ, khiến cho họ có thể thọ trì năm điều thiện lớn để được phước đức, trường thọ và chứng Đạo tịch diệt."

佛Phật 言ngôn
Đức Phật bảo:

何hà 等đẳng 為vi 五ngũ 惡ác何hà 等đẳng 五ngũ 痛thống何hà 等đẳng 五ngũ 燒thiêu何hà 等đẳng 消tiêu 化hóa 五ngũ 惡ác令linh 持trì 五ngũ 善thiện獲hoạch 其kỳ 福phước 德đức度độ 世thế 長trường 壽thọ泥Nê 洹Hoàn 之chi 道Đạo
"Năm việc xấu ác, năm loại thống khổ, và năm sự thiêu đốt là những gì? Làm thế nào để tiêu trừ năm việc xấu ác và làm cho thọ trì năm điều thiện lớn để được phước đức, trường thọ và chứng tịch diệt?"


Việc Ác Thứ Nhất và Điều Thiện Thứ Nhất


其kỳ 一nhất 惡ác 者giả諸chư 天thiên 人nhân 民dân蠕nhuyễn 動động 之chi 類loại欲dục 為vi 眾chúng 惡ác莫mạc 不bất 皆giai 然nhiên強cường 者giả 伏phục 弱nhược轉chuyển 相tương 剋khắc 賊tặc殘tàn 害hại 殺sát 戮lục迭điệt 相tương 吞thôn 噬phệ不bất 知tri 修tu 善thiện惡ác 逆nghịch 無vô 道đạo後hậu 受thọ 殃ương 罰phạt自tự 然nhiên 趣thú 向hướng神thần 明minh 記ký 識thức犯phạm 者giả 不bất 赦xá故cố 有hữu 貧bần 窮cùng 下hạ 賤tiện乞khất 丐cái 孤cô 獨độc聾lung 盲manh 瘖âm 瘂á愚ngu 癡si 弊tệ 惡ác至chí 有hữu 尪uông 狂cuồng不bất 逮đãi 之chi 屬thuộc又hựu 有hữu 尊tôn 貴quý 豪hào 富phú高cao 才tài 明minh 達đạt皆giai 由do 宿túc 世thế慈từ 孝hiếu 修tu 善thiện積tích 德đức 所sở 致trí
"Việc đại ác thứ nhất là thế này. Hàng trời người và cho đến các loài sâu bọ, hễ làm ác thì sẽ không ngoại trừ ai. Kẻ mạnh hà hiếp kẻ yếu. Hỗ tương tàn sát, giết hại, và ăn nuốt lẫn nhau. Chúng chẳng biết tu thiện mà chỉ ác nghịch vô đạo. Rồi tự nhiên phải chịu hình phạt và chuốc lấy tai họa về sau. Các điều ác sẽ lưu vào tạng thức và chẳng tha miễn một ai. Cho nên trên đời mới có kẻ bần cùng hạ tiện, xin ăn côi cút, mù điếc câm ngọng, ngu si xấu xí, cho đến có những kẻ tàn tật, què liệt điên cuồng, hoặc mấy kẻ bất bình thường. Nhưng lại cũng có những người tôn quý giàu sang và thông minh tài ba. Đó đều là do bởi đời trước, họ nhân từ hiếu thảo và tích đức tu thiện.

世thế 有hữu 常thường 道đạo王vương 法pháp 牢lao 獄ngục不bất 肯khẳng 畏úy 慎thận為vi 惡ác 入nhập 罪tội受thọ 其kỳ 殃ương 罰phạt求cầu 望vọng 解giải 脫thoát難nan 得đắc 免miễn 出xuất世thế 間gian 有hữu 此thử目mục 前tiền 現hiện 事sự壽thọ 終chung 後hậu 世thế尤vưu 深thâm 尤vưu 劇kịch入nhập 其kỳ 幽u 冥minh轉chuyển 生sanh 受thọ 身thân譬thí 如như 王vương 法pháp痛thống 苦khổ 極cực 刑hình
Trên thế gian có quốc pháp và ngục tù, những kẻ ác chẳng kiêng sợ nên mặc nhiên tạo tội ác. Rồi sau đó, họ bị pháp luật trừng trị và cầu mong ra khỏi thì cũng khó mà được. Ở thế gian phải thọ lấy hình phạt ngay trong đời hiện tại. Sau khi chết thì càng kịch liệt hơn. Họ đọa vào chốn tối tăm và chuyển sanh với một thân thể để thọ khổ. Đây ví như luật pháp trên nhân thế, họ bị cực hình hết sức thống khổ.

故cố 有hữu 自tự 然nhiên 三tam 塗đồ無vô 量lượng 苦khổ 惱não轉chuyển 貿mậu 其kỳ 身thân改cải 形hình 易dịch 道đạo所sở 受thọ 壽thọ 命mạng或hoặc 長trường 或hoặc 短đoản魂hồn 神thần 精tinh 識thức自tự 然nhiên 趣thú 之chi當đương 獨độc 值trị 向hướng相tương 從tùng 共cộng 生sanh更cánh 相tương 報báo 復phục無vô 有hữu 止chỉ 已dĩ殃ương 惡ác 未vị 盡tận不bất 得đắc 相tương 離ly展triển 轉chuyển 其kỳ 中trung無vô 有hữu 出xuất 期kỳ難nan 得đắc 解giải 脫thoát痛thống 不bất 可khả 言ngôn天thiên 地địa 之chi 間gian自tự 然nhiên 有hữu 是thị雖tuy 不bất 即tức 時thời卒thốt 暴bạo 應ứng 至chí善thiện 惡ác 之chi 道đạo會hội 當đương 歸quy 之chi是thị 為vi 一nhất 大đại 惡ác一nhất 痛thống 一nhất 燒thiêu
Do vậy, ba đường ác tự nhiên hình thành và có vô lượng khổ não. Tội nhân cứ y theo nghiệp mà chuyển đổi thân hình và cõi giới thọ sanh. Thọ mạng hoặc dài hay ngắn, thần hồn sẽ tự nhiên rảo tới. Hoặc họ sẽ chuyển sanh đồng thời với những kẻ oan gia để cùng nhau báo thù. Trừ phi nghiệp tội đã tận, bằng không cứ như thế cho đến mãi chẳng ngừng và không hề được thoát miễn. Họ lưu chuyển ở trong đó mà chẳng có kỳ hạn để ra khỏi. Rất khó được giải thoát và thống khổ không thể tả. Trong trời đất tự nhiên có những việc như vậy. Báo ứng của thiện ác tuy có thể sẽ không lập tức đến cùng một lúc, nhưng hoặc sớm hay muộn cũng sẽ trở về. Đây là việc đại ác thứ nhất, loại thống khổ thứ nhất, và sự thiêu đốt thứ nhất.

勤cần 苦khổ 如như 是thị譬thí 如như 大đại 火hỏa焚phần 燒thiêu 人nhân 身thân人nhân 能năng 於ư 中trung一nhất 心tâm 制chế 意ý端đoan 身thân 正chánh 行hạnh獨độc 作tác 諸chư 善thiện不bất 為vi 眾chúng 惡ác 者giả身thân 獨độc 度độ 脫thoát獲hoạch 其kỳ 福phước 德đức度độ 世thế 上thượng 天thiên泥Nê 洹Hoàn 之chi 道Đạo是thị 為vi 一nhất 大đại 善thiện 也dã
Những sự khổ đau như thế ví như lửa lớn đốt cháy thân người. Nếu có ai tuy cũng ở trong hoàn cảnh ấy mà nhất tâm giữ ý, thân nghiệp chân chánh, luôn làm các việc thiện, và không làm các điều ác thì họ sẽ được giải thoát có được phước đức, hoặc sanh lên trời, hay chứng Đạo tịch diệt. Đây là điều thiện lớn thứ nhất."


Việc Ác Thứ Nhì và Điều Thiện Thứ Nhì


佛Phật 言ngôn
Đức Phật bảo:

其kỳ 二nhị 惡ác 者giả世thế 間gian 人nhân 民dân父phụ 子tử 兄huynh 弟đệ室thất 家gia 夫phu 婦phụ都đô 無vô 義nghĩa 理lý不bất 順thuận 法pháp 度độ奢xa 婬dâm 憍kiêu 縱túng各các 欲dục 快khoái 意ý任nhậm 心tâm 自tự 恣tứ更cánh 相tương 欺khi 惑hoặc心tâm 口khẩu 各các 異dị言ngôn 念niệm 無vô 實thật佞nịnh 諂siểm 不bất 忠trung巧xảo 言ngôn 諛du 媚mị嫉tật 賢hiền 謗báng 善thiện陷hãm 入nhập 怨oán 枉uổng
"Việc đại ác thứ nhì là thế này. Người ở thế gian--cha mẹ anh em, vợ chồng con cái--nếu có ai bất nhân bất nghĩa, không tuân theo quốc pháp, hoang dâm kiêu ngạo, phóng túng vô độ, hoặc dối gạt người khác. Lời nói và ý nghĩ trái nghịch--không trung thực, hoặc nịnh hót bất tín, miệng lưỡi a dua, phỉ báng thánh hiền, ganh ghét người thiện, hay gây hại kẻ khác.

主chủ 上thượng 不bất 明minh任nhậm 用dụng 臣thần 下hạ臣thần 下hạ 自tự 在tại機cơ 偽ngụy 多đa 端đoan踐tiễn 度độ 能năng 行hành知tri 其kỳ 形hình 勢thế在tại 位vị 不bất 正chánh為vị 其kỳ 所sở 欺khi妄vọng 損tổn 忠trung 良lương不bất 當đương 天thiên 心tâm臣thần 欺khi 其kỳ 君quân子tử 欺khi 其kỳ 父phụ兄huynh 弟đệ 夫phu 婦phụ中trung 外ngoại 知tri 識thức更cánh 相tương 欺khi 誑cuống各các 懷hoài 貪tham 欲dục瞋sân 恚khuể 愚ngu 癡si欲dục 自tự 厚hậu 己kỷ欲dục 貪tham 多đa 有hữu尊tôn 卑ty 上thượng 下hạ心tâm 俱câu 同đồng 然nhiên破phá 家gia 亡vong 身thân不bất 顧cố 前tiền 後hậu親thân 屬thuộc 內nội 外ngoại坐tọa 之chi 滅diệt 族tộc
Hoặc có hôn quân không sáng suốt, khiến cho bầy thần lộng hành, hãm hại trung lương và chẳng theo thiên lý. Gian thần lấn quyền quân thượng. Con ức hiếp cha. Anh em vợ chồng, bạn bè thân thuộc, lừa dối lẫn nhau. Do bởi tham sân si nên muốn tự lợi và tham lam không chán. Người trên kẻ dưới, lòng ai nấy bất chánh như nhau. Họ bất chấp hậu quả và kết cục là mạng mất nhà tan. Gia quyến nội ngoại cũng mắc lấy liên lụy và làm cho toàn tộc phải bị diệt vong.

或hoặc 時thời 室thất 家gia 知tri 識thức鄉hương 黨đảng 市thị 里lý愚ngu 民dân 野dã 人nhân轉chuyển 共cộng 從tùng 事sự更cánh 相tương 剝bác 害hại忿phẫn 成thành 怨oán 結kết富phú 有hữu 慳san 惜tích不bất 肯khẳng 施thí 與dữ愛ái 保bảo 貪tham 重trọng心tâm 勞lao 身thân 苦khổ如như 是thị 至chí 竟cánh無vô 所sở 恃thị 怙hộ獨độc 來lai 獨độc 去khứ無vô 一nhất 隨tùy 者giả善thiện 惡ác 禍họa 福phước追truy 命mạng 所sở 生sanh或hoặc 在tại 樂lạc 處xứ或hoặc 入nhập 苦khổ 毒độc然nhiên 後hậu 乃nãi 悔hối當đương 復phục 何hà 及cập
Hoặc có lúc họ cùng làm việc với thân quyến, bạn bè, dân chúng trong xóm làng, người ở thành thị, kẻ ngu đần, hay người man rợ. Họ cùng nhau lợi dụng và hãm hại lẫn nhau. Thế rồi sự phẫn nộ kết thành oán thù. Người giàu sang thì bủn xỉn và chẳng chịu bố thí. Họ tham luyến tài bảo và chỉ làm khổ nhọc thân tâm. Cứ như vậy cho đến cuối đời, họ không có nơi nào cậy trông. Tự mình đến rồi tự mình ra đi và chẳng ai theo cùng. Lành dữ hay họa phước, chúng bám theo đến đời sau. Hoặc họ sẽ ở nơi vui sướng hay sẽ rơi vào chốn khổ đau. Lúc đó có hối hận thì cũng đã quá trễ.

世thế 間gian 人nhân 民dân心tâm 愚ngu 少thiểu 智trí見kiến 善thiện 憎tăng 謗báng不bất 思tư 慕mộ 及cập但đãn 欲dục 為vi 惡ác妄vọng 作tác 非phi 法pháp常thường 懷hoài 盜đạo 心tâm悕hy 望vọng 他tha 利lợi消tiêu 散tán 磨ma 盡tận而nhi 復phục 求cầu 索sách邪tà 心tâm 不bất 正chánh懼cụ 人nhân 有hữu 色sắc不bất 豫dự 思tư 計kế事sự 至chí 乃nãi 悔hối
Tâm trí của người thế tục ngu muội và nông cạn. Khi thấy việc lành, chẳng những không quý mến mà còn sanh lòng chê ghét. Họ chỉ muốn làm điều ác và những việc phi pháp. Lòng thường nhớ tưởng đến trộm cắp và hy vọng chiếm lợi người khác. Sau khi đã dùng hết đồ trộm về, họ lại tiếp tục tìm cách. Tâm họ bất chánh. Mặc dù sợ bị người khác biết nhưng vẫn thản nhiên đi làm mà không hề suy nghĩ. Sau khi bị bắt mới ăn năn hối tiếc.

今kim 世thế 現hiện 有hữu王vương 法pháp 牢lao 獄ngục隨tùy 罪tội 趣thú 向hướng受thọ 其kỳ 殃ương 罰phạt因nhân 其kỳ 前tiền 世thế不bất 信tín 道Đạo 德đức不bất 修tu 善thiện 本bổn今kim 復phục 為vi 惡ác天thiên 神thần 剋khắc 識thức別biệt 其kỳ 名danh 籍tịch壽thọ 終chung 神thần 逝thệ下hạ 入nhập 惡ác 道đạo
Trên thế gian có quốc pháp và lao tù. Tội nhân tùy theo tội đã phạm mà thọ lấy hình phạt. Những kẻ này ở đời trước đã không tin Đạo Pháp và cũng chẳng tu căn lành. Bây giờ lại làm thêm điều xấu ác. Những việc họ làm đều có thiên thần ghi chép. Sau khi chết, thần thức sẽ đọa đường ác.

故cố 有hữu 自tự 然nhiên 三tam 塗đồ無vô 量lượng 苦khổ 惱não展triển 轉chuyển 其kỳ 中trung世thế 世thế 累lũy 劫kiếp無vô 有hữu 出xuất 期kỳ難nan 得đắc 解giải 脫thoát痛thống 不bất 可khả 言ngôn是thị 為vi 二nhị 大đại 惡ác二nhị 痛thống 二nhị 燒thiêu
Do vậy, ba đường ác tự nhiên hình thành và có vô lượng khổ não. Họ lưu chuyển ở trong đó mà chẳng có kỳ hạn để ra khỏi. Rất khó được giải thoát và thống khổ không thể tả. Đây là việc đại ác thứ nhì, loại thống khổ thứ nhì, và sự thiêu đốt thứ nhì.

勤cần 苦khổ 如như 是thị譬thí 如như 大đại 火hỏa焚phần 燒thiêu 人nhân 身thân人nhân 能năng 於ư 中trung一nhất 心tâm 制chế 意ý端đoan 身thân 正chánh 行hạnh獨độc 作tác 諸chư 善thiện不bất 為vi 眾chúng 惡ác 者giả身thân 獨độc 度độ 脫thoát獲hoạch 其kỳ 福phước 德đức度độ 世thế 上thượng 天thiên泥Nê 洹Hoàn 之chi 道Đạo是thị 為vi 二nhị 大đại 善thiện 也dã
Những sự khổ đau như thế ví như lửa lớn đốt cháy thân người. Nếu có ai tuy cũng ở trong hoàn cảnh ấy mà nhất tâm giữ ý, thân nghiệp chân chánh, chỉ làm các việc thiện, và không làm các điều ác thì họ sẽ được giải thoát có được phước đức, hoặc sanh lên trời, hay chứng Đạo tịch diệt. Đây là điều thiện lớn thứ nhì."


Việc Ác Thứ Ba và Điều Thiện Thứ Ba


佛Phật 言ngôn
Đức Phật bảo:

其kỳ 三tam 惡ác 者giả世thế 間gian 人nhân 民dân相tương 因nhân 寄ký 生sanh共cộng 居cư 天thiên 地địa 之chi 間gian處xử 年niên 壽thọ 命mạng無vô 能năng 幾kỷ 何hà上thượng 有hữu 賢hiền 明minh 長trưởng 者giả尊tôn 貴quý 豪hào 富phú下hạ 有hữu 貧bần 窮cùng 廝tư 賤tiện尪uông 劣liệt 愚ngu 夫phu中trung 有hữu 不bất 善thiện 之chi 人nhân常thường 懷hoài 邪tà 惡ác但đãn 念niệm 婬dâm 妷dật煩phiền 滿mãn 胸hung 中trung愛ái 欲dục 交giao 亂loạn坐tọa 起khởi 不bất 安an貪tham 意ý 守thủ 惜tích但đãn 欲dục 唐đường 得đắc眄miện 睞lãi 細tế 色sắc邪tà 態thái 外ngoại 逸dật自tự 妻thê 厭yếm 憎tăng私tư 妄vọng 出xuất 入nhập費phí 損tổn 家gia 財tài事sự 為vi 非phi 法pháp交giao 結kết 聚tụ 會hội興hưng 師sư 相tương 伐phạt攻công 劫kiếp 殺sát 戮lục強cưỡng 奪đoạt 不bất 道đạo惡ác 心tâm 在tại 外ngoại不bất 自tự 修tu 業nghiệp盜đạo 竊thiết 趣thú 得đắc欲dục 擊kích 成thành 事sự恐khủng 勢thế 迫bách 脅hiếp歸quy 給cấp 妻thê 子tử
"Việc đại ác thứ ba là thế này. Người ở thế gian có thọ mạng ngắn ngủi. Họ cậy nương lẫn nhau và chung sống trong trời đất. Trên cùng có bậc hiền minh, trưởng giả, tôn quý, và hàng phú hào. Ở dưới có hạng bần cùng, thấp hèn, đê tiện, và người ngu dốt. Ở giữa có kẻ bất thiện, thường nghĩ tưởng đến tà ác, và chỉ nhớ đến việc dâm dật. Tâm rối bời bởi ái dục chi phối, đứng ngồi không yên. Lòng tham lam bỏn xẻn và chỉ muốn những chuyện xa vời. Mắt liếc nhìn những thứ sắc dục và ý tà vậy liền hiện ra bên ngoài. Họ chán ghét vợ nhà và ra ngoài ngoại tình. Hao tổn gia tài và làm những điều phi pháp. Giao kết tụ hội và gây ra những việc đâm chém, đánh cướp giết hại, và cưỡng đoạt vô đạo. Lòng ác của họ mong khởi đến tài vật của người, không chịu tự mình đi làm việc, và đồ có được là do trộm cắp lấy về. Khi việc đã xong, họ sợ bị pháp luật trừng phạt nên mới đưa cho vợ con.

恣tứ 心tâm 快khoái 意ý極cực 身thân 作tác 樂lạc或hoặc 於ư 親thân 屬thuộc不bất 避tị 尊tôn 卑ty家gia 室thất 中trung 外ngoại患hoạn 而nhi 苦khổ 之chi亦diệc 復phục 不bất 畏úy王vương 法pháp 禁cấm 令lệnh如như 是thị 之chi 惡ác著trước 於ư 人nhân 鬼quỷ日nhật 月nguyệt 照chiếu 見kiến神thần 明minh 記ký 識thức
Tâm họ phóng túng đắc ý và luôn ham muốn khoái lạc. Hoặc ở trong thân thuộc, chẳng nể người trên kẻ dưới, và tạo ra những việc tai họa khổ đau cho gia đình và họ hàng. Họ cũng chẳng kiêng sợ những điều cấm chế của luật pháp. Các tội ác như vậy, người quỷ đều biết, nhật nguyệt soi thấy, và tạng thức lưu giữ.

故cố 有hữu 自tự 然nhiên 三tam 塗đồ無vô 量lượng 苦khổ 惱não展triển 轉chuyển 其kỳ 中trung世thế 世thế 累lũy 劫kiếp無vô 有hữu 出xuất 期kỳ難nan 得đắc 解giải 脫thoát痛thống 不bất 可khả 言ngôn是thị 為vi 三tam 大đại 惡ác三tam 痛thống 三tam 燒thiêu
Do vậy, ba đường ác tự nhiên hình thành và có vô lượng khổ não. Họ lưu chuyển ở trong đó mà chẳng có kỳ hạn để ra khỏi. Rất khó được giải thoát và thống khổ không thể tả. Đây là việc đại ác thứ ba, loại thống khổ thứ ba, và sự thiêu đốt thứ ba.

勤cần 苦khổ 如như 是thị譬thí 如như 大đại 火hỏa焚phần 燒thiêu 人nhân 身thân人nhân 能năng 於ư 中trung一nhất 心tâm 制chế 意ý端đoan 身thân 正chánh 行hạnh獨độc 作tác 諸chư 善thiện不bất 為vi 眾chúng 惡ác 者giả身thân 獨độc 度độ 脫thoát獲hoạch 其kỳ 福phước 德đức度độ 世thế 上thượng 天thiên泥Nê 洹Hoàn 之chi 道Đạo是thị 為vi 三tam 大đại 善thiện 也dã
Những sự khổ đau như thế ví như lửa lớn đốt cháy thân người. Nếu có ai tuy cũng ở trong hoàn cảnh ấy mà nhất tâm giữ ý, thân nghiệp chân chánh, luôn làm các việc thiện, và không làm các điều ác thì họ sẽ được giải thoát có được phước đức, hoặc sanh lên trời, hay chứng Đạo tịch diệt. Đây là điều thiện lớn thứ ba."


Việc Ác Thứ Tư và Điều Thiện Thứ Tư


佛Phật 言ngôn
Đức Phật bảo:

其kỳ 四tứ 惡ác 者giả世thế 間gian 人nhân 民dân不bất 念niệm 修tu 善thiện轉chuyển 相tương 教giáo 令lệnh共cộng 為vi 眾chúng 惡ác兩lưỡng 舌thiệt 惡ác 口khẩu妄vọng 言ngôn 綺ỷ 語ngữ讒sàm 賊tặc 鬪đấu 亂loạn憎tăng 嫉tật 善thiện 人nhân敗bại 壞hoại 賢hiền 明minh於ư 傍bàng 快khoái 喜hỷ不bất 孝hiếu 二nhị 親thân輕khinh 慢mạn 師sư 長trưởng朋bằng 友hữu 無vô 信tín難nan 得đắc 誠thành 實thật尊tôn 貴quý 自tự 大đại謂vị 己kỷ 有hữu 道đạo橫hoành 行hành 威uy 勢thế侵xâm 易dị 於ư 人nhân不bất 能năng 自tự 知tri為vi 惡ác 無vô 恥sỉ自tự 以dĩ 強cường 健kiện欲dục 人nhân 敬kính 難nan不bất 畏úy 天thiên 地địa神thần 明minh 日nhật 月nguyệt不bất 肯khẳng 作tác 善thiện難nan 可khả 降hàng 化hóa自tự 用dụng 偃yển 蹇kiển謂vị 可khả 常thường 爾nhĩ無vô 所sở 憂ưu 懼cụ常thường 懷hoài 憍kiêu 慢mạn如như 是thị 眾chúng 惡ác天thiên 神thần 記ký 識thức
"Việc đại ác thứ tư là thế này. Người ở thế gian chẳng nhớ tu thiện. Trái lại, họ xúi giục với nhau cùng chung làm việc ác. Nào là nói đâm thọc, nói lời ác, nói dối, và nói thêu dệt. Họ gièm pha tranh đấu, ganh ghét người hiền lương, nhục mạ thánh hiền rồi khoái chí ở đằng sau nhe cười. Lại bất hiếu với cha mẹ, khinh mạn sư trưởng, bất tín với bạn bè và lòng chẳng thành thật. Họ tự đại, tự cho là mình tôn quý và có đạo đức. Họ cậy thế lộng quyền và ức hiếp người khác. Những kẻ ấy ngang nhiên làm điều ác và chẳng biết xấu hổ. Thế nên khó mà được người kính mến. Họ chẳng sợ trời sợ đất, thần minh hay nhật nguyệt. Bởi chẳng chịu làm việc lành, hạng người như thế rất khó giáo hóa. Lại lếu láo tự cao và mọi thứ đều cho là thường hằng. Cho nên họ chẳng kiêng sợ và luôn kiêu ngạo khinh mạn. Các tội ác như vậy, thiên thần đều ghi rõ.

賴lại 其kỳ 前tiền 世thế頗phả 作tác 福phước 德đức小tiểu 善thiện 扶phù 接tiếp營doanh 護hộ 助trợ 之chi今kim 世thế 為vi 惡ác福phước 德đức 盡tận 滅diệt諸chư 善thiện 神thần 鬼quỷ各các 去khứ 離ly 之chi身thân 獨độc 空không 立lập無vô 所sở 復phục 依y壽thọ 命mạng 終chung 盡tận諸chư 惡ác 所sở 歸quy自tự 然nhiên 迫bách 促xúc共cộng 趣thú 奪đoạt 之chi又hựu 其kỳ 名danh 籍tịch記ký 在tại 神thần 明minh殃ương 咎cữu 牽khiên 引dẫn當đương 往vãng 趣thú 向hướng罪tội 報báo 自tự 然nhiên無vô 從tùng 捨xả 離ly但đãn 得đắc 前tiền 行hành入nhập 於ư 火hỏa 鑊hoạch身thân 心tâm 摧tồi 碎toái精tinh 神thần 痛thống 苦khổ當đương 斯tư 之chi 時thời悔hối 復phục 何hà 及cập天thiên 道đạo 自tự 然nhiên不bất 得đắc 蹉sa 跌trật
Những kẻ ấy cậy nhờ vào phước đức đã tạo ở đời trước và dùng chút căn lành nhỏ nhoi đó để trợ giúp và bảo hộ. Song bởi đời này làm ác và tiêu hết phước đức, các thiện quỷ thần đều xa lánh. Họ côi cút một mình và cũng chẳng có nơi nào để dựa. Bởi các nghiệp làm đều lưu giữ trong tạng thức, cho nên khi thọ mạng chấm dứt, các điều ác liền tự nhiên trở về và kéo họ đọa đường ác. Do bởi tai ương dẫn dắt nên đọa đường ác, họ tự nhiên thọ lấy tội báo mà chẳng thể thoát ra. Họ phải rơi vào trong chảo lửa bỏng, thân tâm tan nát và tinh thần thống khổ. Lúc đó có hối hận thì cũng đã quá trễ. Thiên đạo có những việc như thế và không bao giờ sai trật.

故cố 有hữu 自tự 然nhiên 三tam 塗đồ無vô 量lượng 苦khổ 惱não展triển 轉chuyển 其kỳ 中trung世thế 世thế 累lũy 劫kiếp無vô 有hữu 出xuất 期kỳ難nan 得đắc 解giải 脫thoát痛thống 不bất 可khả 言ngôn是thị 為vi 四tứ 大đại 惡ác四tứ 痛thống 四tứ 燒thiêu
Do vậy, ba đường ác tự nhiên hình thành và có vô lượng khổ não. Họ lưu chuyển ở trong đó mà chẳng có kỳ hạn để ra khỏi. Rất khó được giải thoát và thống khổ không thể tả. Đây là việc đại ác thứ tư, loại thống khổ thứ tư, và sự thiêu đốt thứ tư.

勤cần 苦khổ 如như 是thị譬thí 如như 大đại 火hỏa焚phần 燒thiêu 人nhân 身thân人nhân 能năng 於ư 中trung一nhất 心tâm 制chế 意ý端đoan 身thân 正chánh 行hạnh獨độc 作tác 諸chư 善thiện不bất 為vi 眾chúng 惡ác身thân 獨độc 度độ 脫thoát獲hoạch 其kỳ 福phước 德đức度độ 世thế 上thượng 天thiên泥Nê 洹Hoàn 之chi 道Đạo是thị 為vi 四tứ 大đại 善thiện 也dã
Những sự khổ đau như thế ví như lửa lớn đốt cháy thân người. Nếu có ai tuy cũng ở trong hoàn cảnh ấy mà nhất tâm giữ ý, thân nghiệp chân chánh, luôn làm các việc thiện, và không làm các điều ác thì họ sẽ được giải thoát có được phước đức, hoặc sanh lên trời, hay chứng Đạo tịch diệt. Đây là điều thiện lớn thứ tư."


Việc Ác Thứ Năm và Điều Thiện Thứ Năm


佛Phật 言ngôn
Đức Phật bảo:

其kỳ 五ngũ 惡ác 者giả世thế 間gian 人nhân 民dân徙tỉ 倚ỷ 懈giải 惰nọa不bất 肯khẳng 作tác 善thiện治trị 身thân 修tu 業nghiệp家gia 室thất 眷quyến 屬thuộc飢cơ 寒hàn 困khốn 苦khổ父phụ 母mẫu 教giáo 誨hối瞋sân 目mục 怒nộ 應ứng言ngôn 令linh 不bất 和hòa違vi 戾lệ 反phản 逆nghịch譬thí 如như 怨oán 家gia不bất 如như 無vô 子tử取thủ 與dữ 無vô 節tiết眾chúng 共cộng 患hoạn 厭yếm負phụ 恩ân 違vi 義nghĩa無vô 有hữu 報báo 償thường 之chi 心tâm貧bần 窮cùng 困khốn 乏phạp不bất 能năng 復phục 得đắc辜cô 較giảo 縱túng 奪đoạt放phóng 恣tứ 遊du 散tán串xuyến 數số 唐đường 得đắc用dụng 自tự 賑chẩn 給cấp耽đam 酒tửu 嗜thị 美mỹ飲ẩm 食thực 無vô 度độ肆tứ 心tâm 蕩đãng 逸dật魯lỗ 扈hỗ 抵để 突đột不bất 識thức 人nhân 情tình強cưỡng 欲dục 抑ức 制chế
"Việc đại ác thứ năm là thế này. Người ở thế gian hay có tánh lười biếng và thích ỷ lại. Họ chẳng chịu làm việc thiện, chẳng siêng năng làm việc và để mặc cho gia đình quyến thuộc bị đói rét khốn khổ. Khi cha mẹ dạy bảo điều chi, họ giận dữ trợn trừng con mắt mà nói lời bất kính, ngược ngạo hỗn xược ví như là oan gia. Có đứa con ngỗ nghịch như thế thì cũng như là chẳng có. Chúng lại không giữ phép tắc, vong ân phụ nghĩa, và chẳng có tấm lòng báo đáp. Thế nên mọi người đều xa ghét và phải chịu bần cùng khốn khổ đến chẳng thể xoay sở, rồi nghĩ cách mưu đoạt tài sản của người khác, chơi bời lêu lổng, và gian lận mưu sinh. Lại đam mê tửu sắc, ăn uống không có chừng mực, phóng đãng buông xuôi, ẩu đả lỗ mãng, ức hiếp người khác, và chẳng biết nhân tâm.

見kiến 人nhân 有hữu 善thiện憎tăng 嫉tật 惡ố 之chi無vô 義nghĩa 無vô 禮lễ無vô 所sở 顧cố 錄lục自tự 用dụng 職chức 當đương不bất 可khả 諫gián 曉hiểu六lục 親thân 眷quyến 屬thuộc所sở 資tư 有hữu 無vô不bất 能năng 憂ưu 念niệm不bất 惟duy 父phụ 母mẫu 之chi 恩ân不bất 存tồn 師sư 友hữu 之chi 義nghĩa心tâm 常thường 念niệm 惡ác口khẩu 常thường 言ngôn 惡ác身thân 常thường 行hành 惡ác曾tằng 無vô 一nhất 善thiện不bất 信tín 先tiên 聖thánh諸chư 佛Phật 經Kinh 法Pháp不bất 信tín 行hành 道Đạo可khả 得đắc 度độ 世thế不bất 信tín 死tử 後hậu神thần 明minh 更canh 生sanh不bất 信tín 作tác 善thiện 得đắc 善thiện為vi 惡ác 得đắc 惡ác欲dục 殺sát 真Chân 人Nhân鬪đấu 亂loạn 眾chúng 僧Tăng欲dục 害hại 父phụ 母mẫu兄huynh 弟đệ 眷quyến 屬thuộc六lục 親thân 憎tăng 惡ác願nguyện 令linh 其kỳ 死tử
Khi thấy có người thiện, lòng sanh ganh ghét, bất nghĩa vô lễ và chẳng chút kiêng nể. Họ tự làm theo sở thích và không một ai có thể khuyên can. Chúng chẳng màng đến lục thân quyến thuộc, không nghĩ đến trọng ân của cha mẹ, và chẳng nhớ ơn nghĩa của thầy bạn. Thân luôn làm việc xấu, ngữ thường nói lời dữ, và ý hằng nhớ điều ác. Trọn đời họ chưa từng làm một việc lành nào cả. Không tin tiên thánh và Kinh Pháp của chư Phật. Không tin tu Đạo sẽ vượt khỏi thế gian. Không tin sau khi chết, thần thức sẽ dẫn đi chuyển sanh. Không tin làm thiện gặp lành, làm ác gặp dữ. Chúng chỉ muốn giết bậc Ứng Chân, phá hòa hợp Tăng, giết hại cha mẹ và anh em quyến thuộc. Cho nên bà con họ hàng căm ghét và nguyền rủa cho chúng hãy mau chết đi.

如như 是thị 世thế 人nhân心tâm 意ý 俱câu 然nhiên愚ngu 癡si 曚mông 昧muội而nhi 自tự 以dĩ 智trí 慧tuệ不bất 知tri 生sanh 所sở 從tùng 來lai死tử 所sở 趣thú 向hướng不bất 仁nhân 不bất 順thuận逆nghịch 惡ác 天thiên 地địa而nhi 於ư 其kỳ 中trung悕hy 望vọng 僥kiểu 倖hãnh欲dục 求cầu 長trường 生sanh會hội 當đương 歸quy 死tử慈từ 心tâm 教giáo 誨hối令linh 其kỳ 念niệm 善thiện開khai 示thị 生sanh 死tử善thiện 惡ác 之chi 趣thú自tự 然nhiên 有hữu 是thị而nhi 不bất 肯khẳng 信tín 之chi苦khổ 心tâm 與dữ 語ngữ無vô 益ích 其kỳ 人nhân心tâm 中trung 閉bế 塞tắc意ý 不bất 開khai 解giải大đại 命mạng 將tương 終chung悔hối 懼cụ 交giao 至chí不bất 豫dự 修tu 善thiện臨lâm 窮cùng 方phương 悔hối悔hối 之chi 於ư 後hậu將tương 何hà 及cập 乎hồ
Tâm ý người đời phần lớn là như vậy. Ngu si mê muội mà cứ tưởng mình thông minh. Họ chẳng biết từ đâu sanh đến và khi chết sẽ đi về đâu. Lại còn bất nhân ngỗ nghịch, chẳng thuận theo đạo lý của trời đất. Họ hy vọng cầu may và muốn được trường thọ, nhưng kết cục là phải bị chết một cách oan uổng. Giả như có Thiện Tri Thức từ tâm dạy bảo là hãy nhớ tưởng đến việc lành, khai thị nỗi khổ của sanh tử và quả báo của thiện ác đều tự nhiên thật có thì họ chẳng chịu tin. Thế nên làm cho các vị ấy nhọc lòng khuyên nhủ mà không giúp được gì, bởi trong tâm họ đã tắc nghẽn và ý chẳng thể khai mở. Thế rồi khi sắp lìa đời, họ phập phồng lo sợ và ăn năn nuối tiếc. Lúc sanh thời không sớm tu thiện, khi lâm chung mới hối hận thì có lợi ích gì?

天thiên 地địa 之chi 間gian五ngũ 道đạo 分phân 明minh恢khôi 廓khuếch 窈yểu 冥minh浩hạo 浩hạo 茫mang 茫mang善thiện 惡ác 報báo 應ứng禍họa 福phước 相tương 承thừa身thân 自tự 當đương 之chi無vô 誰thùy 代đại 者giả數số 之chi 自tự 然nhiên應ứng 其kỳ 所sở 行hành殃ương 咎cữu 追truy 命mạng無vô 得đắc 縱túng 捨xả善thiện 人nhân 行hành 善thiện從tùng 樂lạc 入nhập 樂lạc從tùng 明minh 入nhập 明minh惡ác 人nhân 行hành 惡ác從tùng 苦khổ 入nhập 苦khổ從tùng 冥minh 入nhập 冥minh誰thùy 能năng 知tri 者giả獨độc 佛Phật 知tri 耳nhĩ教giáo 語ngữ 開khai 示thị信tín 用dụng 者giả 少thiểu生sanh 死tử 不bất 休hưu惡ác 道đạo 不bất 絕tuyệt如như 是thị 世thế 人nhân難nan 可khả 具cụ 盡tận
Trong trời đất có năm đường rành rẽ như vậy, rộng lớn sâu xa và mênh mông thăm thẳm. Thiện ác báo ứng, họa phước theo sát, tự mình phải gánh lấy và sẽ không một ai thay thế. Luật nhân quả tự nhiên ứng theo nghiệp của mỗi người và bám dính chẳng rời xa. Người thiện làm việc lành nên từ an vui vào an vui, từ quang minh vào quang minh. Người ác làm việc xấu nên từ khổ ách vào khổ ách, từ u minh vào u minh. Ngoài Phật ra, ai có thể biết rõ? Dù có người dạy bảo nhưng có mấy ai tin. Cho nên cứ lẩn quẩn trong sanh tử không ngừng, sa đọa đường ác không dứt. Người thế tục là như thế, khó mà kể cho hết.

故cố 有hữu 自tự 然nhiên 三tam 塗đồ無vô 量lượng 苦khổ 惱não展triển 轉chuyển 其kỳ 中trung世thế 世thế 累lũy 劫kiếp無vô 有hữu 出xuất 期kỳ難nan 得đắc 解giải 脫thoát痛thống 不bất 可khả 言ngôn是thị 為vi 五ngũ 大đại 惡ác五ngũ 痛thống 五ngũ 燒thiêu
Do vậy, ba đường ác tự nhiên hình thành và có vô lượng khổ não. Họ lưu chuyển ở trong đó mà chẳng có kỳ hạn để ra khỏi. Rất khó được giải thoát và thống khổ không thể tả. Đây là việc đại ác thứ năm, loại thống khổ thứ năm, và sự thiêu đốt thứ năm.

勤cần 苦khổ 如như 是thị譬thí 如như 大đại 火hỏa焚phần 燒thiêu 人nhân 身thân人nhân 能năng 於ư 中trung一nhất 心tâm 制chế 意ý端đoan 身thân 正chánh 念niệm言ngôn 行hành 相tương 副phó所sở 作tác 至chí 誠thành所sở 語ngữ 如như 語ngữ心tâm 口khẩu 不bất 轉chuyển獨độc 作tác 諸chư 善thiện不bất 為vi 眾chúng 惡ác 者giả身thân 獨độc 度độ 脫thoát獲hoạch 其kỳ 福phước 德đức度độ 世thế 上thượng 天thiên泥Nê 洹Hoàn 之chi 道Đạo是thị 為vi 五ngũ 大đại 善thiện 也dã
Những sự khổ đau như thế ví như lửa lớn đốt cháy thân người. Nếu có ai tuy cũng ở trong hoàn cảnh ấy mà nhất tâm giữ ý, thân nghiệp chân chánh, luôn làm các việc thiện, và không làm các điều ác thì họ sẽ được giải thoát có được phước đức, hoặc sanh lên trời, hay chứng Đạo tịch diệt. Đây là điều thiện lớn thứ năm."


Đức Phật Căn Dặn Thêm


佛Phật 告cáo 彌Di 勒Lặc
Phật bảo ngài Từ Thị:

吾ngô 語ngứ 汝nhữ 等đẳng是thị 世thế 五ngũ 惡ác勤cần 苦khổ 若nhược 此thử五ngũ 痛thống 五ngũ 燒thiêu展triển 轉chuyển 相tương 生sanh但đãn 作tác 眾chúng 惡ác不bất 修tu 善thiện 本bổn皆giai 悉tất 自tự 然nhiên入nhập 諸chư 惡ác 趣thú或hoặc 其kỳ 今kim 世thế先tiên 被bị 殃ương 病bệnh求cầu 死tử 不bất 得đắc求cầu 生sanh 不bất 得đắc罪tội 惡ác 所sở 招chiêu示thị 眾chúng 見kiến 之chi身thân 死tử 隨tùy 行hành入nhập 三tam 惡ác 道đạo苦khổ 毒độc 無vô 量lượng自tự 相tương 燋tiều 然nhiên至chí 其kỳ 久cửu 後hậu
"Như Ta đã nói với các ông, người ở thế gian bị năm việc xấu ác, năm loại thống khổ, và năm sự thiêu đốt; làm cho khổ sở như thế và sanh khởi tương tục. Họ chỉ làm các điều ác và chẳng tu căn lành. Thế nên tự nhiên phải đọa các đường ác. Hoặc ở hiện đời có tội ác chiêu cảm mà mọi người đều trông thấy. Như là có kẻ bị mắc bệnh hiểm nghèo, cầu chết không được mà cầu sống cũng chẳng xong. Sau khi mạng chung, họ phải sa vào ba đường ác để thọ lấy vô lượng thống khổ, thân tâm bị thiêu đốt đến thời gian rất lâu.

共cộng 作tác 怨oán 結kết從tùng 小tiểu 微vi 起khởi遂toại 成thành 大đại 惡ác皆giai 由do 貪tham 著trước 財tài 色sắc不bất 能năng 施thí 慧tuệ癡si 欲dục 所sở 迫bách隨tùy 心tâm 思tư 想tưởng煩phiền 惱não 結kết 縛phược無vô 有hữu 解giải 已dĩ厚hậu 己kỷ 諍tranh 利lợi無vô 所sở 省tỉnh 錄lục富phú 貴quý 榮vinh 華hoa當đương 時thời 快khoái 意ý不bất 能năng 忍nhẫn 辱nhục不bất 務vụ 修tu 善thiện威uy 勢thế 無vô 幾kỷ隨tùy 以dĩ 磨ma 滅diệt身thân 生sanh 勞lao 苦khổ久cửu 後hậu 大đại 劇kịch天thiên 道đạo 施thi 張trương自tự 然nhiên 糺củ 舉cử綱cương 紀kỷ 羅la 網võng上thượng 下hạ 相tương 應ứng煢quỳnh 煢quỳnh 忪chung 忪chung當đương 入nhập 其kỳ 中trung古cổ 今kim 有hữu 是thị痛thống 哉tai 可khả 傷thương
Những người đó cùng nhau kết tạo oán thù; bắt đầu từ nho nhỏ rồi dần đến thành việc đại ác. Đây là do bởi lòng tham lam tài sắc nên chẳng hề chịu bố thí. Tư tưởng bị dục vọng cuồng si bức bách, tâm bị phiền não trói buộc, và chẳng có phương cách giải tỏa. Họ tranh giành lợi dưỡng cho bản thân mà không hề phản tỉnh. Khi được vinh hoa phú quý, họ khoái chí và không thể nhẫn chịu nghịch cảnh hay tu tạo việc lành. Quyền thế nhỏ nhoi, chẳng mấy chốc tiêu tan và rồi phải tự thọ lấy nỗi thống khổ tột cùng về sau. Thiên đạo tự nhiên và ví như lưới giăng bao phủ, trên dưới khắp nơi. Những kẻ ấy khi bị rơi vào trong đó rồi mới lo lắng kinh hoàng. Từ xưa đến nay có những việc thương đau và đáng thương như vậy."

佛Phật 語ngứ 彌Di 勒Lặc
Phật bảo ngài Từ Thị:

世thế 間gian 如như 是thị佛Phật 皆giai 哀ai 之chi以dĩ 威uy 神thần 力lực摧tồi 滅diệt 眾chúng 惡ác悉tất 令linh 就tựu 善thiện棄khí 捐quyên 所sở 思tư奉phụng 持trì 經Kinh 戒giới受thọ 行hành 道Đạo 法Pháp無vô 所sở 違vi 失thất終chung 得đắc 度độ 世thế泥Nê 洹Hoàn 之chi 道Đạo
"Thế gian là như vậy! Cho nên chư Phật đều thương cảm và dùng sức uy thần để diệt trừ các điều ác và làm cho họ lìa bỏ những tập khí xấu, khiến họ có thể phụng trì Kinh giới, tu hành Đạo Pháp mà chẳng hề xao lãng hay sai phạm. Họ cuối cùng sẽ vượt khỏi thế gian và đắc Đạo tịch diệt."




佛Phật 言ngôn
Đức Phật bảo:

汝nhữ 今kim 諸chư 天thiên 人nhân 民dân及cập 後hậu 世thế 人nhân得đắc 佛Phật 經Kinh 語ngữ當đương 熟thục 思tư 之chi能năng 於ư 其kỳ 中trung端đoan 心tâm 正chánh 行hạnh主chủ 上thượng 為vi 善thiện率suất 化hóa 其kỳ 下hạ轉chuyển 相tương 勅sắc 令lệnh各các 自tự 端đoan 守thủ尊tôn 聖thánh 敬kính 善thiện仁nhân 慈từ 博bác 愛ái佛Phật 語ngữ 教giáo 誨hối無vô 敢cảm 虧khuy 負phụ當đương 求cầu 度độ 世thế拔bạt 斷đoạn 生sanh 死tử眾chúng 惡ác 之chi 本bổn當đương 離ly 三tam 塗đồ無vô 量lượng 憂ưu 畏úy苦khổ 痛thống 之chi 道đạo
"Ông cùng hàng trời người và những chúng sanh đời sau, khi nghe được lời Phật dạy nên khéo tư duy nghĩa lý, tâm ngay thẳng, và việc làm phải chân chánh. Ví như có vị thống lãnh làm việc lành thì sẽ làm gương cho quần thần. Sau đó quần thần sẽ triển chuyển gương ấy đến kẻ dưới. Tất cả đều nên chánh trực, tôn kính thánh hiền, kính trọng người thiện, nhân từ bác ái, và đừng nên phụ lòng lời khuyên bảo của Như Lai. Tất cả hãy cầu vượt khỏi thế gian, đoạn trừ nguồn gốc của sanh tử và các điều ác. Như thế sẽ xa lìa vô lượng lo sợ và sự thống khổ của ba đường ác.

汝nhữ 等đẳng 於ư 是thị廣quảng 殖thực 德đức 本bổn布bố 恩ân 施thí 慧tuệ勿vật 犯phạm 道đạo 禁cấm忍nhẫn 辱nhục 精tinh 進tấn一nhất 心tâm 智trí 慧tuệ轉chuyển 相tương 教giáo 化hóa為vi 德đức 立lập 善thiện正chánh 心tâm 正chánh 意ý齋trai 戒giới 清thanh 淨tịnh一nhất 日nhật 一nhất 夜dạ勝thắng 在tại 無Vô 量Lượng 壽Thọ 國quốc為vi 善thiện 百bách 歲tuế
Các ông nên rộng gieo trồng căn lành, vui bố thí, siêng trì giới, khéo nhẫn nhục, luôn tinh tấn, trụ thiền định, và vào trí tuệ. Sau đó, hãy dạy bảo người khác. Lại phải nên tu đức làm lành và trực tâm chánh ý. Phàm ai có thể trong một ngày một đêm mà ăn chay và trì giới thanh tịnh thì sẽ vượt hơn làm thiện 100 năm ở cõi nước của Đức Phật Vô Lượng Thọ.

所sở 以dĩ 者giả 何hà彼bỉ 佛Phật 國quốc 土độ無vô 為vi 自tự 然nhiên皆giai 積tích 眾chúng 善thiện無vô 毛mao 髮phát 之chi 惡ác於ư 此thử 修tu 善thiện十thập 日nhật 十thập 夜dạ勝thắng 於ư 他tha 方phương諸chư 佛Phật 國quốc 中trung為vi 善thiện 千thiên 歲tuế
Vì sao thế? Bởi cõi nước của Đức Phật kia vô vi tự nhiên đều tích tập các việc lành; việc ác như chừng bằng sợi tóc cũng chẳng có. Như có ai ở thế giới này tu thiện trong mười ngày mười đêm, họ vượt hơn làm thiện 1.000 năm ở các quốc độ của chư Phật phương khác.

所sở 以dĩ 者giả 何hà他tha 方phương 佛Phật 國quốc為vi 善thiện 者giả 多đa為vi 惡ác 者giả 少thiểu福phước 德đức 自tự 然nhiên無vô 造tạo 惡ác 之chi 地địa唯duy 此thử 間gian 多đa 惡ác無vô 有hữu 自tự 然nhiên勤cần 苦khổ 求cầu 欲dục轉chuyển 相tương 欺khi 殆đãi心tâm 勞lao 形hình 困khốn飲ẩm 苦khổ 食thực 毒độc如như 是thị 怱thông 務vụ未vị 嘗thường 寧ninh 息tức
Vì sao thế? Bởi dân chúng trong cõi nước của chư Phật phương khác đa số làm việc lành và ít người làm việc ác. Họ tự nhiên làm những việc phước đức và không tạo các việc ác. Trái lại ở thế giới này, việc ác thì nhiều còn việc thiện thì chẳng tự nhiên có. Con người vì dục vọng mà gian nan truy cầu và lợi dụng lẫn nhau. Thế nên, làm cho khổ tâm nhọc xác, như ăn phải vị đắng và uống thuốc độc. Các việc như thế đến chẳng bao giờ thôi nghỉ.

吾ngô 哀ai 汝nhữ 等đẳng天thiên 人nhân 之chi 類loại苦khổ 心tâm 誨hối 喻dụ教giáo 令linh 修tu 善thiện隨tùy 器khí 開khai 導đạo授thọ 與dữ 經Kinh 法Pháp莫mạc 不bất 承thừa 用dụng在tại 意ý 所sở 願nguyện皆giai 令linh 得đắc 道Đạo佛Phật 所sở 遊du 履lý國quốc 邑ấp 丘khâu 聚tụ靡mĩ 不bất 蒙mông 化hóa天thiên 下hạ 和hòa 順thuận日nhật 月nguyệt 清thanh 明minh風phong 雨vũ 以dĩ 時thời災tai 厲lệ 不bất 起khởi國quốc 豐phong 民dân 安an兵binh 戈qua 無vô 用dụng崇sùng 德đức 興hưng 仁nhân務vụ 修tu 禮lễ 讓nhượng
Ta vì thương xót các ông cùng hàng trời người nên hết lòng khuyên nhủ và dạy bảo tu thiện. Ta tùy theo khả năng của mỗi người mà chỉ dẫn và dạy thọ trì Kinh Pháp để đều được chứng Đạo như sở nguyện. Ở những quốc gia hay thành thị xóm làng nào có Phật chu du giáo hóa thì không một ai là chẳng được hóa độ. Nơi đó sẽ thái bình, trời trong trăng sáng, mưa gió thuận hòa, thiên tai và bệnh dịch sẽ không khởi lên, quốc thái dân an, và không có binh lửa chiến tranh. Dân chúng sẽ yêu mến phước đức và giàu lòng nhân từ. Họ sẽ học theo lễ nghĩa và biết khiêm nhường."




佛Phật 言ngôn
Đức Phật bảo:

我ngã 哀ai 愍mẫn 汝nhữ 等đẳng諸chư 天thiên 人nhân 民dân甚thậm 於ư 父phụ 母mẫu 念niệm 子tử今kim 吾ngô 於ư 此thử 世thế 作tác 佛Phật降hàng 化hóa 五ngũ 惡ác消tiêu 除trừ 五ngũ 痛thống絕tuyệt 滅diệt 五ngũ 燒thiêu以dĩ 善thiện 攻công 惡ác拔bạt 生sanh 死tử 之chi 苦khổ令linh 獲hoạch 五ngũ 德đức昇thăng 無vô 為vi 之chi 安an吾ngô 去khứ 世thế 後hậu經Kinh 道Đạo 漸tiệm 滅diệt人nhân 民dân 諂siểm 偽ngụy復phục 為vi 眾chúng 惡ác五ngũ 燒thiêu 五ngũ 痛thống還hoàn 如như 前tiền 法pháp久cửu 後hậu 轉chuyển 劇kịch不bất 可khả 悉tất 說thuyết我ngã 但đãn 為vì 汝nhữ略lược 言ngôn 之chi 耳nhĩ
"Ta thương xót các ông và hàng trời người còn hơn cha mẹ thương nhớ con cái. Ta nay ở thế giới này làm Phật, điều phục năm việc xấu ác, diệt trừ năm loại thống khổ, và đoạn tuyệt năm sự thiêu đốt. Ta dùng thiện để chuyển hóa ác và bạt trừ thống khổ của sanh tử, khiến chúng sanh được năm loại công đức và thăng lên nơi an vui của vô vi. Nhưng sau khi Ta diệt độ, Kinh Pháp sẽ dần dần diệt mất. Dân chúng sẽ bắt đầu gian xảo và làm các việc ác trở lại. Cho nên họ phải thọ lấy năm loại thống khổ và năm sự thiêu đốt như trước kia. Về sau sẽ chuyển thành kịch liệt hơn, khổ không thể tả! Ta vì ông nên mới lược nói như thế."

佛Phật 告cáo 彌Di 勒Lặc
Phật bảo ngài Từ Thị:

汝nhữ 等đẳng 各các 善thiện 思tư 之chi轉chuyển 相tương 教giáo 誡giới如như 佛Phật 經Kinh 法Pháp無vô 得đắc 犯phạm 也dã
"Các ông hãy khéo tư duy và học hỏi lẫn nhau, phải đúng như Pháp của Phật dạy và cũng đừng vi phạm."

於ư 是thị 彌Di 勒Lặc 菩Bồ 薩Tát合hợp 掌chưởng 白bạch 言ngôn
Khi ấy, Từ Thị Bồ-tát chắp tay và bạch Phật rằng:

佛Phật 所sở 說thuyết 甚thậm 善thiện世thế 人nhân 實thật 爾nhĩ如Như 來Lai 普phổ 慈từ 哀ai 愍mẫn悉tất 令linh 度độ 脫thoát受thọ 佛Phật 重trọng 誨hối不bất 敢cảm 違vi 失thất
"Lời của Phật nói rất thâm sâu và chân thiện. Nhân thế quả đúng như vậy. Như Lai với lòng từ bi rộng lớn nên khiến hết thảy đều được độ thoát. Chúng con xin thọ trì lời dạy thâm trọng của Phật và sẽ không dám vi phạm hay lãng quên."


Đức Phật Vô Lượng Thọ và Tịnh Độ của Ngài


佛Phật 告cáo 阿A 難Nan
Phật bảo ngài Khánh Hỷ:

汝nhữ 起khởi 更canh 整chỉnh 衣y 服phục合hợp 掌chưởng 恭cung 敬kính禮lễ 無Vô 量Lượng 壽Thọ 佛Phật十thập 方phương 國quốc 土độ諸chư 佛Phật 如Như 來Lai常thường 共cộng 稱xưng 揚dương讚tán 歎thán 彼bỉ 佛Phật無vô 著trước 無vô 閡ngại
"Ông hãy đứng dậy, sửa sang y phục, rồi chắp tay cung kính và hãy đảnh lễ Đức Phật Vô Lượng Thọ. Chư Phật Như Lai ở các quốc độ trong mười phương luôn đồng ngợi khen và tán thán Đức Phật kia, là bậc vô ngại và không chấp trước."

於ư 是thị 阿A 難Nan起khởi 整chỉnh 衣y 服phục正chánh 身thân 西tây 向hướng恭cung 敬kính 合hợp 掌chưởng五ngũ 體thể 投đầu 地địa禮lễ 無Vô 量Lượng 壽Thọ 佛Phật
Lúc bấy giờ, ngài Khánh Hỷ đứng dậy, sửa sang y phục, và mặt xoay về hướng tây. Rồi ngài chắp tay cung kính, cúi đầu đảnh lễ sát đất, và đảnh lễ Đức Phật Vô Lượng Thọ.

白bạch 言ngôn
Sau đó, ngài bạch Đức Phật rằng:

世Thế 尊Tôn願nguyện 見kiến 彼bỉ 佛Phật安An 樂Lạc 國quốc 土độ及cập 諸chư 菩Bồ 薩Tát聲Thanh 聞Văn 大đại 眾chúng
"Bạch Thế Tôn! Con nguyện muốn thấy Đức Phật Kia cùng cõi nước Cực Lạc, chư Bồ-tát và hàng Thanh Văn thánh chúng."

說thuyết 是thị 語ngữ 已dĩ即tức 時thời 無Vô 量Lượng 壽Thọ 佛Phật放phóng 大đại 光quang 明minh普phổ 照chiếu 一nhất 切thiết諸chư 佛Phật 世thế 界giới金Kim 剛Cang 圍Vi 山Sơn須Tu 彌Di 山Sơn 王Vương大đại 小tiểu 諸chư 山sơn一nhất 切thiết 所sở 有hữu皆giai 同đồng 一nhất 色sắc譬thí 如như 劫kiếp 水thủy彌di 滿mãn 世thế 界giới其kỳ 中trung 萬vạn 物vật沉trầm 沒một 不bất 現hiện滉hoảng 瀁dạng 浩hạo 汗hãn唯duy 見kiến 大đại 水thủy彼bỉ 佛Phật 光quang 明minh亦diệc 復phục 如như 是thị聲Thanh 聞Văn 菩Bồ 薩Tát一nhất 切thiết 光quang 明minh皆giai 悉tất 隱ẩn 蔽tế唯duy 見kiến 佛Phật 光quang明minh 耀diệu 顯hiển 赫hách
Khi vừa nói lời ấy xong, Đức Phật Vô Lượng Thọ phóng đại quang minh, chiếu khắp tất cả thế giới của chư Phật. Núi Kim Cang, núi Thiết Vi, Vua núi Diệu Cao, và các núi lớn nhỏ, tất cả đều đồng một màu sắc. Ánh sáng giống như nước trùm khắp thế giới khi đến kiếp thủy tai. Hết thảy vạn vật ở trong đó đều chìm chẳng hiện, duy chỉ thấy nước lớn mênh mông. Ánh quang minh của Đức Phật kia cũng lại như vậy. Tất cả hào quang của Thanh Văn và Bồ-tát thảy đều lu mờ, duy chỉ thấy ánh hào quang của Phật sáng chói hiển hách.

爾nhĩ 時thời 阿A 難Nan即tức 見kiến 無Vô 量Lượng 壽Thọ 佛Phật威uy 德đức 巍nguy 巍nguy如như 須Tu 彌Di 山Sơn 王Vương高cao 出xuất 一nhất 切thiết諸chư 世thế 界giới 上thượng相tướng 好hảo 光quang 明minh靡mĩ 不bất 照chiếu 耀diệu此thử 會hội 四tứ 眾chúng一nhất 時thời 悉tất 見kiến彼bỉ 見kiến 此thử 土độ亦diệc 復phục 如như 是thị
Lúc bấy giờ, ngài Khánh Hỷ liền thấy uy đức lồng lộng của Đức Phật Vô Lượng Thọ, như Vua núi Diệu Cao, cao hơn trên tất cả thế giới. Tướng hảo và quang minh của Ngài chiếu sáng trùm khắp. Khi ấy, bốn chúng đệ tử trong Pháp hội này đều đồng một lúc thấy quốc độ kia và đại chúng trong cõi nước đó cũng lại như vậy.




爾nhĩ 時thời 佛Phật 告cáo 阿A 難Nan及cập 慈Từ 氏Thị 菩Bồ 薩Tát
Lúc bấy giờ Phật bảo ngài Khánh Hỷ và Từ Thị Bồ-tát:

汝nhữ 見kiến 彼bỉ 國quốc從tùng 地địa 已dĩ 上thượng至chí 淨Tịnh 居Cư 天Thiên其kỳ 中trung 所sở 有hữu微vi 妙diệu 嚴nghiêm 淨tịnh自tự 然nhiên 之chi 物vật為vi 悉tất 見kiến 不phủ
"Ông có thấy cõi nước kia, từ dưới đất lên đến các cõi trời Tịnh Cư, tất cả mọi vật ở trong đó đều tự nhiên thanh tịnh và vi diệu trang nghiêm chăng?"

阿A 難Nan 對đối 曰viết
Ngài Khánh Hỷ thưa rằng:

唯dụy 然nhiên 已dĩ 見kiến
"Dạ vâng, đã thấy!"

汝nhữ 寧ninh 復phục 聞văn無Vô 量Lượng 壽Thọ 佛Phật大đại 音âm 宣tuyên 布bố一nhất 切thiết 世thế 界giới化hóa 眾chúng 生sanh 不phủ
"Ông lại có nghe Đức Phật Vô Lượng Thọ dùng âm thanh lớn mà tuyên cáo đến tất cả thế giới để giáo hóa chúng sanh chăng?"

阿A 難Nan 對đối 曰viết
Ngài Khánh Hỷ thưa rằng:

唯dụy 然nhiên 已dĩ 聞văn
"Dạ vâng, đã nghe!"

彼bỉ 國quốc 人nhân 民dân乘thừa 百bách 千thiên 由do 旬tuần七thất 寶bảo 宮cung 殿điện無vô 所sở 障chướng 閡ngại遍biến 至chí 十thập 方phương供cúng 養dường 諸chư 佛Phật汝nhữ 復phục 見kiến 不phủ
"Chúng sanh ở cõi nước kia du hành trong cung điện bảy báu lớn bằng 100.000 yojana đến khắp mười phương để cúng dường chư Phật mà không bị chướng ngại. Ông lại có thấy chăng?"

對đối 曰viết
Ngài Khánh Hỷ thưa rằng:

已dĩ 見kiến
"Dạ vâng, đã thấy!"

彼bỉ 國quốc 人nhân 民dân有hữu 胎thai 生sanh 者giả汝nhữ 復phục 見kiến 不phủ
"Có chúng sanh ở cõi nước kia sanh ra từ trong thai của hoa sen . Ông lại có thấy chăng?"

對đối 曰viết
Ngài Khánh Hỷ thưa rằng:

已dĩ 見kiến
"Dạ vâng, đã thấy!"

其kỳ 胎thai 生sanh 者giả所sở 處xử 宮cung 殿điện或hoặc 百bách 由do 旬tuần或hoặc 五ngũ 百bách 由do 旬tuần各các 於ư 其kỳ 中trung受thọ 諸chư 快khoái 樂lạc如như 忉Đao 利Lợi 天Thiên亦diệc 皆giai 自tự 然nhiên
"Những ai sanh ra từ trong thai của hoa sen sẽ ở trong cung điện rộng lớn 100 yojana hay 500 yojana. Họ thọ hưởng các sự vui sướng nơi đó như ở trời Tam Thập Tam."


Sinh Ra Từ Trong Thai của Hoa Sen Do Bởi Hoài Nghi


爾nhĩ 時thời 慈Từ 氏Thị 菩Bồ 薩Tát 白bạch 佛Phật 言ngôn
Lúc bấy giờ Từ Thị Bồ-tát bạch Phật rằng:

世Thế 尊Tôn何hà 因nhân 何hà 緣duyên彼bỉ 國quốc 人nhân 民dân胎thai 生sanh 化hóa 生sanh
"Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên gì mà có những chúng sanh ở cõi nước kia hóa sanh hay sanh ra từ trong thai của hoa sen?"

佛Phật 告cáo 慈Từ 氏Thị
Phật bảo ngài Từ Thị:

若nhược 有hữu 眾chúng 生sanh以dĩ 疑nghi 惑hoặc 心tâm修tu 諸chư 功công 德đức願nguyện 生sanh 彼bỉ 國quốc不bất 了liễu 佛Phật 智trí不bất 思tư 議nghị 智trí不bất 可khả 稱xưng 智trí大Đại 乘Thừa 廣quảng 智trí無vô 等đẳng 無vô 倫luân最tối 上thượng 勝thắng 智trí於ư 此thử 諸chư 智trí疑nghi 惑hoặc 不bất 信tín然nhiên 猶do 信tín 罪tội 福phước修tu 習tập 善thiện 本bổn願nguyện 生sanh 其kỳ 國quốc此thử 諸chư 眾chúng 生sanh生sanh 彼bỉ 宮cung 殿điện壽thọ 五ngũ 百bách 歲tuế常thường 不bất 見kiến 佛Phật不bất 聞văn 經Kinh 法Pháp不bất 見kiến 菩Bồ 薩Tát聲Thanh 聞Văn 聖thánh 眾chúng是thị 故cố 於ư 彼bỉ 國quốc 土độ謂vị 之chi 胎thai 生sanh
"Nếu có chúng sanh nào nguyện sanh về cõi nước kia nhưng tu các công đức với lòng hoài nghi. Họ không thấu hiểu trí tuệ của Phật, trí tuệ chẳng thể nghĩ bàn, trí tuệ chẳng thể xưng tán, trí tuệ Đại Thừa quảng đại, trí tuệ không ai ngang bằng, trí tuệ tối thắng vô thượng, và nghi ngờ hay chẳng tin các trí tuệ như thế. Tuy nhiên, do bởi tin tội phước cùng tu tập căn lành, và nguyện vãng sanh về cõi nước kia, nên cũng được vãng sanh. Họ sống trong cung điện nơi đó 500 năm và chẳng hề thấy Phật, không nghe Kinh Pháp, chẳng thấy chư Bồ-tát cùng hàng Thanh Văn thánh chúng. Cho nên ở quốc độ kia gọi là sanh ra từ trong thai của hoa sen.

若nhược 有hữu 眾chúng 生sanh明minh 信tín 佛Phật 智trí乃nãi 至chí 勝thắng 智trí作tác 諸chư 功công 德đức信tín 心tâm 迴hồi 向hướng此thử 諸chư 眾chúng 生sanh於ư 七thất 寶bảo 華hoa 中trung自tự 然nhiên 化hóa 生sanh跏già 趺phu 而nhi 坐tọa須tu 臾du 之chi 頃khoảnh身thân 相tướng 光quang 明minh智trí 慧tuệ 功công 德đức如như 諸chư 菩Bồ 薩Tát具cụ 足túc 成thành 就tựu
Nếu có chúng sanh nào tin sâu và biết rõ trí tuệ của Phật, cho đến trí tuệ tối thắng, rồi làm các việc công đức và tín tâm hồi hướng, thì những chúng sanh này sẽ ngồi xếp bằng với tư thế hoa sen ở trong hoa sen bảy báu và tự nhiên hóa sanh. Trong khoảnh khắc, thân tướng quang minh và trí tuệ công đức của họ sẽ thành tựu đầy đủ như các Bồ-tát đã ở đó.

復phục 次thứ 慈Từ 氏Thị他tha 方phương 諸chư 大đại 菩Bồ 薩Tát發phát 心tâm 欲dục 見kiến無Vô 量Lượng 壽Thọ 佛Phật恭cung 敬kính 供cúng 養dường及cập 諸chư 菩Bồ 薩Tát聲Thanh 聞Văn 聖thánh 眾chúng彼bỉ 菩Bồ 薩Tát 等đẳng命mạng 終chung 得đắc 生sanh無Vô 量Lượng 壽Thọ 國quốc於ư 七thất 寶bảo 華hoa 中trung自tự 然nhiên 化hóa 生sanh
Lại nữa, Từ Thị! Nếu có chư đại Bồ-tát nào ở cõi nước phương khác mà phát tâm muốn thấy Đức Phật Vô Lượng Thọ cùng chư Bồ-tát và hàng Thanh Văn thánh chúng để cung kính cúng dường, thì khi những Bồ-tát này mạng chung, họ sẽ vãng sanh đến cõi nước của Đức Phật Vô Lượng Thọ và tự nhiên hóa sanh ở trong hoa sen bảy báu.

彌Di 勒Lặc 當đương 知tri彼bỉ 化hóa 生sanh 者giả智trí 慧tuệ 勝thắng 故cố其kỳ 胎thai 生sanh 者giả皆giai 無vô 智trí 慧tuệ於ư 五ngũ 百bách 歲tuế 中trung常thường 不bất 見kiến 佛Phật不bất 聞văn 經Kinh 法Pháp不bất 見kiến 菩Bồ 薩Tát諸chư 聲Thanh 聞Văn 眾chúng無vô 由do 供cúng 養dường 於ư 佛Phật不bất 知tri 菩Bồ 薩Tát 法Pháp 式thức不bất 得đắc 修tu 習tập 功công 德đức當đương 知tri 此thử 人nhân宿túc 世thế 之chi 時thời無vô 有hữu 智trí 慧tuệ疑nghi 惑hoặc 所sở 致trí
Này Từ Thị! Nên biết rằng, những bậc kia có trí tuệ thù thắng, còn những ai sanh ra từ trong thai của hoa sen có trí tuệ thấp kém. Trong 500 năm, họ chẳng hề thấy Phật, không nghe Kinh Pháp, chẳng thấy chư Bồ-tát cùng hàng Thanh Văn thánh chúng. Do họ không thể cúng dường chư Phật và chẳng biết Pháp tu tập của Bồ-tát nên không được công đức. Phải biết đây là do bởi những người này thiếu trí tuệ và khởi lòng hoài nghi ở đời trước."




佛Phật 告cáo 彌Di 勒Lặc
Phật bảo ngài Từ Thị:

譬thí 如như 轉Chuyển 輪Luân 聖Thánh 王Vương別biệt 有hữu 宮cung 室thất七thất 寶bảo 莊trang 飾sức張trương 設thiết 床sàng 帳trướng懸huyền 諸chư 繒tăng 幡phan若nhược 有hữu 諸chư 小tiểu 王vương 子tử得đắc 罪tội 於ư 王vương輒triếp 內nội 彼bỉ 宮cung 中trung繫hệ 以dĩ 金kim 鎖tỏa供cung 給cấp 飯phạn 食thực衣y 服phục 床sàng 蓐nhục華hoa 香hương 伎kỹ 樂nhạc如như 轉Chuyển 輪Luân 王Vương無vô 所sở 乏phạp 少thiểu
"Ví như Chuyển Luân Thánh Vương có cung điện đặc biệt được trang nghiêm bằng bảy báu với giường nệm, màn che, các lọng che, và tràng phan. Nếu có các tiểu vương tử đắc tội với vua cha, thì sẽ bị giam ở trong cung điện kia và siết lại với ổ khóa vàng. Họ được cung cấp y phục, ẩm thực, giường nệm, và hương hoa âm nhạc như vua Chuyển Luân--không chút thiếu hụt.

於ư 意ý 云vân 何hà此thử 諸chư 王vương 子tử寧ninh 樂nhạo 彼bỉ 處xứ 不phủ
Ý ông nghĩ sao? Các vương tử này có vui thích nơi đó chăng?"

對đối 曰viết
Ngài Từ Thị thưa rằng:

不phủ 也dã但đãn 種chủng 種chủng 方phương 便tiện求cầu 諸chư 大đại 力lực欲dục 自tự 勉miễn 出xuất
"Dạ không! Họ luôn dùng đủ mọi cách và mong có sức mạnh để muốn được ra khỏi."

佛Phật 告cáo 彌Di 勒Lặc
Phật bảo ngài Từ Thị:

此thử 諸chư 眾chúng 生sanh亦diệc 復phục 如như 是thị以dĩ 疑nghi 惑hoặc 佛Phật 智trí生sanh 彼bỉ 宮cung 殿điện無vô 有hữu 形hình 罰phạt乃nãi 至chí 一nhất 念niệm 惡ác 事sự但đãn 於ư 五ngũ 百bách 歲tuế 中trung不bất 見kiến 三Tam 寶Bảo不bất 得đắc 供cúng 養dường修tu 諸chư 善thiện 本bổn以dĩ 此thử 為vi 苦khổ雖tuy 有hữu 餘dư 樂lạc猶do 不bất 樂nhạo 彼bỉ 處xứ若nhược 此thử 眾chúng 生sanh識thức 其kỳ 本bổn 罪tội深thâm 自tự 悔hối 責trách求cầu 離ly 彼bỉ 處xứ即tức 得đắc 如như 意ý往vãng 詣nghệ 無Vô 量Lượng 壽Thọ 佛Phật 所sở恭cung 敬kính 供cúng 養dường亦diệc 得đắc 遍biến 至chí無vô 量lượng 無vô 數số諸chư 如Như 來Lai 所sở修tu 諸chư 功công 德đức
"Những chúng sanh này cũng lại như vậy. Do bởi hoài nghi trí tuệ của Phật nên phải sanh về cung điện kia. Tuy ở đó không có hình phạt và cho đến một niệm nghĩ đến việc ác cũng không, nhưng họ sẽ phải ở trong đó 500 năm. Họ chẳng thấy Tam Bảo và không thể cúng dường hoặc tu các thiện căn. Đây gọi là khổ. Mặc dù có nhiều sự vui sướng nhưng họ chẳng ưa thích nơi đó. Tuy nhiên, nếu những chúng sanh này tỉnh ngộ nghiệp tội của đời trước, rồi ăn năn tự trách, và cầu mong ra khỏi nơi ấy thì lập tức sẽ được như ý. Sau đó, họ liền đến Đạo Tràng của Đức Phật Vô Lượng Thọ và cung kính cúng dường. Họ cũng có thể đến vô lượng vô số Đạo Tràng của chư Như Lai để tu hành các công đức.

彌Di 勒Lặc 當đương 知tri其kỳ 有hữu 菩Bồ 薩Tát生sanh 疑nghi 惑hoặc 者giả為vị 失thất 大đại 利lợi是thị 故cố 應ưng 當đương明minh 信tín 諸chư 佛Phật無vô 上thượng 智trí 慧tuệ
Này Từ Thị! Nên biết rằng, nếu có Bồ-tát nào sanh tâm hoài nghi thì sẽ mất những lợi ích to lớn. Vì thế, hành giả phải nên biết và tin sâu trí tuệ vô thượng của chư Phật."


Chư Bồ-tát Vãng Sinh ở Quốc Độ Này và Các Cõi Nước Phương Khác


彌Di 勒Lặc 菩Bồ 薩Tát 白bạch 佛Phật 言ngôn
Từ Thị Bồ-tát bạch Phật rằng:

世Thế 尊Tôn於ư 此thử 世thế 界giới有hữu 幾kỷ 所sở 不bất 退thoái 菩Bồ 薩Tát生sanh 彼bỉ 佛Phật 國quốc
"Bạch Thế Tôn! Ở thế giới này có bao nhiêu Bồ-tát không thoái chuyển đã vãng sanh về cõi nước của Đức Phật kia?"

佛Phật 告cáo 彌Di 勒Lặc
Phật bảo ngài Từ Thị:

於ư 此thử 世thế 界giới有hữu 六lục 十thập 七thất 億ức不bất 退thoái 菩Bồ 薩Tát往vãng 生sanh 彼bỉ 國quốc一nhất 一nhất 菩Bồ 薩Tát已dĩ 曾tằng 供cúng 養dường無vô 數số 諸chư 佛Phật次thứ 如như 彌Di 勒Lặc 者giả 也dã諸chư 小tiểu 行hạnh 菩Bồ 薩Tát及cập 修tu 習tập 少thiểu 功công 德đức 者giả不bất 可khả 稱xưng 計kế皆giai 當đương 往vãng 生sanh
"Ở thế giới này có 67 ức Bồ-tát không thoái chuyển đã vãng sanh về quốc độ ấy. Mỗi vị Bồ-tát đó đều từng cúng dường vô số chư Phật và công đức chỉ sau Từ Thị ông đây. Trong vị lai sẽ có không thể tính xuể các tiểu hạnh Bồ-tát cùng những vị hành giả ít công đức đều sẽ vãng sanh đến đó."

佛Phật 告cáo 彌Di 勒Lặc
Phật bảo ngài Từ Thị:

不bất 但đãn 我ngã 剎sát諸chư 菩Bồ 薩Tát 等đẳng往vãng 生sanh 彼bỉ 國quốc他tha 方phương 佛Phật 土độ亦diệc 復phục 如như 是thị
"Không chỉ riêng chư Bồ-tát ở quốc độ của Ta sẽ vãng sanh về cõi nước kia, mà các cõi nước của chư Phật ở phương khác cũng lại như vậy.

其kỳ 第đệ 一nhất 佛Phật名danh 曰viết 遠Viễn 照Chiếu彼bỉ 有hữu 百bách 八bát 十thập 億ức 菩Bồ 薩Tát皆giai 當đương 往vãng 生sanh其kỳ 第đệ 二nhị 佛Phật名danh 曰viết 寶Bảo 藏Tạng彼bỉ 有hữu 九cửu 十thập 億ức 菩Bồ 薩Tát皆giai 當đương 往vãng 生sanh其kỳ 第đệ 三tam 佛Phật名danh 曰viết 無Vô 量Lượng 音Âm彼bỉ 有hữu 二nhị 百bách 二nhị 十thập 億ức 菩Bồ 薩Tát皆giai 當đương 往vãng 生sanh其kỳ 第đệ 四tứ 佛Phật名danh 曰viết 甘Cam 露Lộ 味Vị彼bỉ 有hữu 二nhị 百bách 五ngũ 十thập 億ức 菩Bồ 薩Tát皆giai 當đương 往vãng 生sanh其kỳ 第đệ 五ngũ 佛Phật名danh 曰viết 龍Long 勝Thắng彼bỉ 有hữu 十thập 四tứ 億ức 菩Bồ 薩Tát皆giai 當đương 往vãng 生sanh其kỳ 第đệ 六lục 佛Phật名danh 曰viết 勝Thắng 力Lực彼bỉ 有hữu 萬vạn 四tứ 千thiên 菩Bồ 薩Tát皆giai 當đương 往vãng 生sanh其kỳ 第đệ 七thất 佛Phật名danh 曰viết 師Sư 子Tử彼bỉ 有hữu 五ngũ 百bách 億ức 菩Bồ 薩Tát皆giai 當đương 往vãng 生sanh其kỳ 第đệ 八bát 佛Phật名danh 曰viết 離Ly 垢Cấu 光Quang彼bỉ 有hữu 八bát 十thập 億ức 菩Bồ 薩Tát皆giai 當đương 往vãng 生sanh其kỳ 第đệ 九cửu 佛Phật名danh 曰viết 德Đức 首Thủ彼bỉ 有hữu 六lục 十thập 億ức 菩Bồ 薩Tát皆giai 當đương 往vãng 生sanh其kỳ 第đệ 十thập 佛Phật名danh 曰viết 妙Diệu 德Đức 山Sơn彼bỉ 有hữu 六lục 十thập 億ức 菩Bồ 薩Tát皆giai 當đương 往vãng 生sanh其kỳ 第đệ 十thập 一nhất 佛Phật名danh 曰viết 人Nhân 王Vương彼bỉ 有hữu 十thập 億ức 菩Bồ 薩Tát皆giai 當đương 往vãng 生sanh其kỳ 第đệ 十thập 二nhị 佛Phật名danh 曰viết 無Vô 上Thượng 華Hoa彼bỉ 有hữu 無vô 數số不bất 可khả 稱xưng 計kế諸chư 菩Bồ 薩Tát 眾chúng皆giai 不bất 退thoái 轉chuyển智trí 慧tuệ 勇dũng 猛mãnh已dĩ 曾tằng 供cúng 養dường無vô 量lượng 諸chư 佛Phật於ư 七thất 日nhật 中trung即tức 能năng 攝nhiếp 取thủ百bách 千thiên 億ức 劫kiếp大Đại 士Sĩ 所sở 修tu堅kiên 固cố 之chi 法Pháp斯tư 等đẳng 菩Bồ 薩Tát皆giai 當đương 往vãng 生sanh其kỳ 第đệ 十thập 三tam 佛Phật名danh 曰viết 無Vô 畏Úy彼bỉ 有hữu 七thất 百bách 九cửu 十thập 億ức 大đại 菩Bồ 薩Tát 眾chúng諸chư 小tiểu 菩Bồ 薩Tát及cập 比Bỉ 丘Khâu 等đẳng不bất 可khả 稱xưng 計kế皆giai 當đương 往vãng 生sanh
- Đức Phật thứ nhất hiệu là Viễn Chiếu có 180 ức Bồ-tát và họ đều sẽ vãng sanh đến đó.
- Đức Phật thứ nhì hiệu là Bảo Tạng có 90 ức Bồ-tát và họ đều sẽ vãng sanh đến đó.
- Đức Phật thứ ba hiệu là Vô Lượng Âm có 220 ức Bồ-tát và họ đều sẽ vãng sanh đến đó.
- Đức Phật thứ tư hiệu là Cam Lộ Vị có 250 ức Bồ-tát và họ đều sẽ vãng sanh đến đó.
- Đức Phật thứ năm hiệu là Long Thắng có 14 ức Bồ-tát và họ đều sẽ vãng sanh đến đó.
- Đức Phật thứ sáu hiệu là Thắng Lực có 14.000 Bồ-tát và họ đều sẽ vãng sanh đến đó.
- Đức Phật thứ bảy hiệu là Sư Tử có 500 ức Bồ-tát và họ đều sẽ vãng sanh đến đó.
- Đức Phật thứ tám hiệu là Ly Cấu Quang có 80 ức Bồ-tát và họ đều sẽ vãng sanh đến đó.
- Đức Phật thứ chín hiệu là Đức Thủ có 60 ức Bồ-tát và họ đều sẽ vãng sanh đến đó.
- Đức Phật thứ mười hiệu là Diệu Đức Sơn có 60 ức Bồ-tát và họ đều sẽ vãng sanh đến đó.
- Đức Phật thứ mười một hiệu là Nhân Vương có 10 ức Bồ-tát và họ đều sẽ vãng sanh đến đó.
- Đức Phật thứ mười hai hiệu là Vô Thượng Hoa có không thể tính kể số chư Bồ-tát. Tất cả đều được không thoái chuyển, có trí tuệ dũng mãnh, đã từng cúng dường vô lượng chư Phật, và ở trong bảy ngày liền có thể nhiếp thủ các Pháp kiên cố của bậc Đại Sĩ tu suốt trăm ngàn ức kiếp. Chư Bồ-tát này đều sẽ vãng sanh đến đó.
- Đức Phật thứ mười ba hiệu là Vô Úy có 790 ức chư đại Bồ-tát, với các tiểu Bồ-tát cùng các vị Bhikṣu [bíc su] nhiều không thể tính kể, và họ đều sẽ vãng sanh đến đó."

佛Phật 語ngứ 彌Di 勒Lặc
Phật bảo ngài Từ Thị:

不bất 但đãn 此thử 十thập 四tứ 佛Phật 國quốc 中trung諸chư 菩Bồ 薩Tát 等đẳng當đương 往vãng 生sanh 也dã十thập 方phương 世thế 界giới無vô 量lượng 佛Phật 國quốc其kỳ 往vãng 生sanh 者giả亦diệc 復phục 如như 是thị甚thậm 多đa 無vô 數số我ngã 但đãn 說thuyết 十thập 方phương諸chư 佛Phật 名danh 號hiệu及cập 菩Bồ 薩Tát 比Bỉ 丘Khâu生sanh 彼bỉ 國quốc 者giả晝trú 夜dạ 一nhất 劫kiếp尚thượng 未vị 能năng 竟cánh我ngã 今kim 為vì 汝nhữ略lược 說thuyết 之chi 耳nhĩ
"Không những chỉ 14 Phật độ trên có chư Bồ-tát ở đó sẽ vãng sanh đến cõi nước kia, mà chư Bồ-tát ở vô lượng thế giới của chư Phật trong mười phương sẽ vãng sanh cũng lại như vậy. Số ấy nhiều vô số kể. Nếu Ta ngày đêm chỉ nói về danh hiệu của mười phương chư Phật cùng chư Bồ-tát và các vị Bhikṣu, sẽ vãng sanh về cõi nước kia đến trọn một kiếp thì cũng chẳng thể hết. Ta nay vì ông nên mới lược nói như thế."


Phần Lưu Thông


佛Phật 語ngứ 彌Di 勒Lặc
Phật bảo ngài Từ Thị:

其kỳ 有hữu 得đắc 聞văn彼bỉ 佛Phật 名danh 號hiệu歡hoan 喜hỷ 踊dũng 躍dược乃nãi 至chí 一nhất 念niệm當đương 知tri 此thử 人nhân為vi 得đắc 大đại 利lợi則tắc 是thị 具cụ 足túc無vô 上thượng 功công 德đức是thị 故cố 彌Di 勒Lặc設thiết 有hữu 大đại 火hỏa充sung 滿mãn 三Tam 千Thiên 大Đại 千Thiên 世Thế 界Giới要yếu 當đương 過quá 此thử聞văn 是thị 經Kinh 法Pháp歡hoan 喜hỷ 信tín 樂nhạo受thọ 持trì 讀độc 誦tụng如như 說thuyết 修tu 行hành
"Nếu có ai nghe được danh hiệu của Đức Phật kia và vui mừng hớn hở cho đến chỉ một niệm, thì phải biết người ấy sẽ được lợi ích lớn và đầy đủ công đức vô thượng. Thế nên, Từ Thị! Cho dù có lửa lớn tràn ngập Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới thì hành giả cũng phải nên vượt qua để đến nghe Kinh Pháp này. Nghe xong, lòng hoan hỷ tín mến, thọ trì đọc tụng, và sẽ như Pháp tu hành.

所sở 以dĩ 者giả 何hà多đa 有hữu 菩Bồ 薩Tát欲dục 聞văn 此thử 經Kinh而nhi 不bất 能năng 得đắc
Vì sao thế? Bởi có rất nhiều vị Bồ-tát muốn nghe Kinh này mà chẳng thể được.

若nhược 有hữu 眾chúng 生sanh聞văn 此thử 經Kinh 者giả於ư 無vô 上thượng 道Đạo終chung 不bất 退thoái 轉chuyển是thị 故cố 應ưng 當đương專chuyên 心tâm 信tín 受thọ持trì 誦tụng 說thuyết 行hành
Nếu có chúng sanh nào nghe được Kinh này, họ không bao giờ thoái chuyển nơi Đạo vô thượng. Thế nên, họ phải nhất tâm tín thọ, trì tụng thuyết giảng, và như Pháp tu hành.

吾ngô 今kim 為vì 諸chư 眾chúng 生sanh說thuyết 此thử 經Kinh 法Pháp令linh 見kiến 無Vô 量Lượng 壽Thọ 佛Phật及cập 其kỳ 國quốc 土độ一nhất 切thiết 所sở 有hữu所sở 當đương 為vi 者giả皆giai 可khả 求cầu 之chi無vô 得đắc 以dĩ 我ngã滅diệt 度độ 之chi 後hậu復phục 生sanh 疑nghi 惑hoặc
Ta nay vì các chúng sanh mà thuyết Kinh Pháp này, khiến cho họ thấy Đức Phật Vô Lượng Thọ cùng quốc độ của Ngài, để họ phát tâm tu hành và dứt trừ hoài nghi sau khi Ta diệt độ.

當đương 來lai 之chi 世thế經Kinh 道Đạo 滅diệt 盡tận我ngã 以dĩ 慈từ 悲bi 哀ai 愍mẫn特đặc 留lưu 此thử 經Kinh止chỉ 住trụ 百bách 歲tuế其kỳ 有hữu 眾chúng 生sanh值trị 斯tư 經Kinh 者giả隨tùy 意ý 所sở 願nguyện皆giai 可khả 得đắc 度độ
Trong đời vị lai, Kinh Đạo sẽ diệt tận. Ta vì từ bi thương xót nên đặc biệt lưu lại Kinh này trên thế gian thêm 100 năm. Nếu có chúng sanh nào gặp Kinh này, họ sẽ tùy ý như sở nguyện và đều được độ thoát."

佛Phật 語ngứ 彌Di 勒Lặc
Phật bảo ngài Từ Thị:

如Như 來Lai 興hưng 世thế難nan 值trị 難nan 見kiến諸chư 佛Phật 經Kinh 道Đạo難nan 得đắc 難nan 聞văn菩Bồ 薩Tát 勝thắng 法Pháp諸chư 波Ba 羅La 蜜Mật得đắc 聞văn 亦diệc 難nan遇ngộ 善Thiện 知Tri 識Thức聞văn 法Pháp 能năng 行hành此thử 亦diệc 為vi 難nan若nhược 聞văn 斯tư 經Kinh信tín 樂nhạo 受thọ 持trì難nan 中trung 之chi 難nan無vô 過quá 此thử 難nan
"Như Lai xuất hiện ở thế gian, khó gặp khó thấy. Kinh Đạo của chư Phật, rất khó được nghe. Các Pháp thù thắng Đến Bờ Kia của chư Bồ-tát cũng khó mà nghe được. Gặp Thiện Tri Thức và có thể tu hành theo Pháp đã nghe thì lại càng khó hơn. Như nghe được Kinh này, rồi tư duy nghĩa ý và tín mến thọ trì, thì là điều khó trong cái khó. Không gì khó hơn việc này.

是thị 故cố 我ngã 法Pháp如như 是thị 作tác如như 是thị 說thuyết如như 是thị 教giáo應ưng 當đương 信tín 順thuận如như 法Pháp 修tu 行hành
Vì thế, Pháp của Như Lai là thực hành như vậy, tuyên nói như vậy, và giảng dạy như vậy. Các ông nên tín thuận và như Pháp tu hành."




爾nhĩ 時thời 世Thế 尊Tôn說thuyết 此thử 經Kinh 法Pháp無vô 量lượng 眾chúng 生sanh皆giai 發phát 無Vô 上Thượng 正Chánh 覺Giác 之chi 心tâm萬vạn 二nhị 千thiên 那na 由do 他tha 人nhân得đắc 清thanh 淨tịnh 法Pháp 眼nhãn二nhị 十thập 二nhị 億ức 諸chư 天thiên 人nhân 民dân得đắc 阿A 那Na 含Hàm 果Quả八bát 十thập 萬vạn 比Bỉ 丘Khâu漏lậu 盡tận 意ý 解giải四tứ 十thập 億ức 菩Bồ 薩Tát得đắc 不bất 退thoái 轉chuyển以dĩ 弘hoằng 誓thệ 功công 德đức而nhi 自tự 莊trang 嚴nghiêm於ư 將tương 來lai 世thế當đương 成thành 正chánh 覺giác
Khi Thế Tôn thuyết Kinh Pháp này, có vô lượng chúng sanh đều phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. 12.000 nayuta [na du ta] người đắc Pháp nhãn thanh tịnh. 22 ức người và chư thiên đắc Quả Bất Hoàn. 80.000 vị Bhikṣu được lậu tận ý giải. 40 ức chư Bồ-tát được không thoái chuyển với công đức cùng hoằng thệ nguyện mà dùng để trang nghiêm nơi thân. Vào đời vị lai, họ sẽ thành chánh giác.

爾nhĩ 時thời 三Tam 千Thiên 大Đại 千Thiên 世Thế 界Giới六lục 種chủng 震chấn 動động大đại 光quang 普phổ 照chiếu十thập 方phương 國quốc 土độ百bách 千thiên 音âm 樂nhạc自tự 然nhiên 而nhi 作tác無vô 量lượng 妙diệu 華hoa芬phân 芬phân 而nhi 降giáng
Bấy giờ Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới chấn động sáu cách. Ánh sáng lớn chiếu khắp các quốc độ trong mười phương. Trăm ngàn loại âm nhạc tự nhiên trỗi lên và có vô lượng diệu hoa rơi xuống.

佛Phật 說thuyết 經Kinh 已dĩ彌Di 勒Lặc 菩Bồ 薩Tát及cập 十thập 方phương 來lai諸chư 菩Bồ 薩Tát 眾chúng長Trưởng 老lão 阿A 難Nan諸chư 大đại 聲Thanh 聞Văn一nhất 切thiết 大đại 眾chúng聞văn 佛Phật 所sở 說thuyết靡mĩ 不bất 歡hoan 喜hỷ
Lúc Phật thuyết Kinh này xong, Từ Thị Bồ-tát cùng chư Bồ-tát đã đến từ mười phương, Trưởng lão Khánh Hỷ, chư đại Thanh Văn, và tất cả đại chúng khi nghe lời Phật dạy, không ai là chẳng hoan hỷ.

無Vô 量Lượng 壽Thọ 經Kinh 卷quyển 下hạ
Kinh Vô Lượng Thọ ♦ Hết quyển hạ


Chú Thích

Năm đường ác đề cập ở đây bao gồm: trời, người, bàng sanh, ngạ quỷ, và địa ngục. Loài phi thiên không có riêng một đường ở đây, vì chúng đều hiện hữu ở bốn đường trước trừ địa ngục. Trong thế giới loài người, chỉ có ba đường sau được xem là đường ác. Tuy nhiên, so với Thế giới Cực Lạc thì cả thảy năm đường trên đều là các đường ác.


Sanh ra từ trong thai của hoa sen là một thuật ngữ ẩn dụ chứ không phải thật sanh ra từ bào thai như ở thế gian. Ở Thế giới Cực Lạc thuần chỉ có hóa sanh. Nhưng vì những người này có lòng hoài nghi nên phải ở trong thai của hoa sen rất lâu mới được hóa sanh.

曹Tào 魏Ngụy 天Thiên 竺Trúc 康Khang 僧Tăng 鎧Khải 譯dịch
Dịch sang cổ văn: Pháp sư Khang Tăng Khải ở Thế Kỷ 3
Dịch sang tiếng Việt: Tại gia Bồ-tát giới Thanh tín nam Nguyên Thuận
Phiên âm và chấm câu: Tại gia Bồ-tát giới Thanh tín nam Nguyên Thuận
Phiên âm: 18/7/2010 ◊ Dịch nghĩa: 18/7/2010 ◊ Cập nhật: 5/3/2017

Cách đọc âm tiếng Phạn

yojana: dô cha na
Bhikṣu: bíc su
nayuta: na du ta
Đang dùng phương ngữ: BắcNam